Mở đầu:
Để
có sự hiểu biết khách quan đúng theo kinh thánh về ý nghĩa Sa-bat, luật pháp về
Sa-bat cũng như cách thực hành; trước hết, cần nhận thức được ý nghĩa, mục đích
của công trình của Đức Chúa Trời đã trù liệu từ đời đời; đó là ban sự sống vĩnh
cửu cho con người; cũng như cách Ngài thực hiện mục đích đó qua từng thời kỳ;
có như vậy, mới nhận thức đúng ý nghĩa thật sự về Sa-bat và luật pháp về Sa-bát
nơi lịch sử con người mọi thời đại.
Không
phải ngay khi sáng tạo đã có luật pháp Sa-bat trên văn bản bởi ý nghĩa của
Sa-bát và luật pháp về Sa-bat đã được ghi dấu trong lòng Adam[1].
Lịch sử dân thánh cho thấy, Kinh thánh trên văn bản nói chung và về phương diện
ý nghĩa của Sa-bat cũng như luật pháp về Sa-bát nói riêng được mạc khải cho
nhân loại rất lâu sau Adam và khi có tuyển dân. Việc tuyển dân nhận được kinh
thánh không phải do sự tu luyện khổ chế của Moi-se để tự ngộ đạo; mà bởi duy nhất
Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo toàn năng, Ngài có thẩm quyền và mục đích cho
nhân loại là tạo vật bởi Ngài dựng nên mạc khải cho để hoàn thành công trình của
Ngài.
Như
vậy việc Đức Chúa Trời ban kinh thánh, đã cho thấy tầm quan trọng liên quan đến
ý nghĩa về sự yên nghỉ (Sabat) và luật về sự yên nghỉ (Sa-bat) được ghi chép
trong luật pháp 10 điều răn. Dưới đây là các thời kỳ lịch sử thuộc linh phản
ánh ý nghĩa của sự “yên nghỉ” (Sa-bat) của luật pháp về sự “yên nghỉ” qua việc Đức
Chúa Trời thực hiện mục đích ban sự sống đời đời cho nhân loại.
1. Sa-bát trong Eden
Trình thuật Sáng
thế chương một mặc nhiên chỉ ra cho thấy phần nào mục đích của Đức Chúa Trời
khi mọi vật được Ngài sáng tạo (St 1:1,28,31). Lời mạc khải cho thấy: mọi tạo vật
được sáng tạo mục đích dành cho con người (St 1:28; 2:19) và con người được
sáng tạo mục đích để dành cho Đức Chúa Trời (I Co 11:3; 8:6; Co1:16). Mặt khác
nữa, Đức Chúa Trời muốn con người phải luôn ở trong đường lối Ngài để không những
nhận được SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI NGAY TRÊN ĐẤT (Ma 4:4; I Vua 2:3; Tit 1:2; Kh 5:9-10)
mà còn biết cách quản trị chính cá nhân cũng như các loài thọ tạo khác được ban
cho trong đường lối công bình và thánh sạch.
Con người (Adam)
là một thân vị có đặc tánh: duy nhất, độc lập, và tự do trong mọi quyết định bởi
các phẩm chất: ý chí, trí khôn, tình cảm. Do đó, chọn lựa để tiếp nhận lời dạy mà
không hoàn toàn bởi trí khôn riêng đã là dấu chỉ cho biết về ý nghĩa sự yên nghỉ
hay còn gọi là Sa-bat. Thực vậy, ngay từ lúc ban đầu, Adam với địa vị là một
thân vị được sáng tạo giống hình ảnh Đức Chúa Trời, với các phẩm chất được ban
cho, ông đã tự nhận biết Đức Chúa Trời và đường lối thánh khiết tuyệt đối của
Ngài; sự tiếp nhận đó, mặc nhiên, tỏ ra ông đã có sự chọn lựa; một là ý riêng;
hai là, ý Đức Chúa Trời. Với sự chọn lựa và dẫn đến sự tiếp nhận để Đức Chúa Trời
cư ngụ trong tâm hồn do nơi các phẩm chất và yếu tố được dưng nên “rất tốt đẹp”
đã khiến cho Adam nhận được sự yên nghỉ mọi mặt trong Đức Chúa Trời, không còn
bị các tư tưởng giới hạn bản chất thọ tạo chi phối, đồng thời nhận được lời hứa
về sự sống đời đời ngay trên đất. Đây là một Sa-bat vĩnh viễn đời đời không bị
lệ thuộc vào ngày tháng không gian thời gian.
Adam đã từng
“yên nghỉ” trong Đức Chúa Trời bởi ban đầu ông đã chọn lựa chỉ đi theo đường lối
Đức Chúa Trời mà thôi. Việc chọn lựa ấy được kinh thánh biểu tượng nơi ý nghĩa
của hành động ăn trái của cây “sự sống” là cây ở giữa vườn[2].
Nói cách khác, LUÔN VÂNG GIỮ LỜI DẠY CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI CHÍNH LÀ SỰ YÊN NGHỈ,
CHÍNH LÀ SA-BAT. Và đây là SA-BÁT đời đời vĩnh viễn trên đất không lệ thuộc vào
không gian thời gian mà Đức Chúa Trời muốn không những nơi Adam mà còn toàn thể
nhân loại hầu cho tất cả nhận được sự sống đời đời.[3]
2. Sa-bat ngoài Eden
Adam đã không yên
nghỉ trong Đức Chúa Trời, bởi ông chọn đi theo đường lối riêng, tự lập luật
pháp riêng; việc ấy, khiến cho cá nhân ông và con cháu trở nên bất toàn vì
không có Đức Chúa Trời là Đấng chí toàn không hề sai trật ở cùng. Thời gian cho
thấy, Luật pháp hoàn hảo của Đức Chúa Trời dần dần phai lạt không còn tồn tại
trong tâm hồn loài người (Rm 3:23). Phần nào sau Adam, lịch sử nhân loại cho thấy
hai thành phần; một vẫn còn sự tin kính Đức Chúa Trời; và hai luôn đi theo đường
riêng; mãi cho đến khi tuyển dân ra đời một dự phóng hình bóng cho kế hoạch làm
cho trọn luật pháp Đức Chúa Trời (St 4:1-10; 5:24; 6:8; 11:1-9; 12:1-3; 14:18; 20:6…
).
Và việc ban kinh
thánh hay luật pháp cho con người chính là một trong những hình thức Ngài thực
hiện mục đích hay kế hoạch ban sự sống đời đời cho nhân loại. Thật cần thiết hơn,
khi bản chất con người là loài thọ tạo hữu hạn, thêm nữa lại tự ý lập luật
pháp, đi theo đường lối riêng (cây Thiện ác) dẫn đến toàn thể nhân loại bởi quy
luật truyền sinh được sanh ra nhưng lại phải: già nua - bệnh tật – và sau cùng
phải nếm mùi sự chết. Tất cả mọi hậu quả đang diễn ra trong lịch sử nhân loại
như thế chính là những gánh nặng, những ách tật khiến họ không hề có hạnh phúc
thật tức là sự bất tử và bình an hay yên nghỉ theo cách của Đức Chúa Trời là Đấng
có thẩn quyền trên họ. Thực tế hiển nhiên đó, “con người” cần nhận được sự mạc
khải để nhận biết được giới hạn nghiêm trọng sau Adam đã và đang dẫn đến mọi hậu
quả để cuối cùng là sự chết bởi tự nơi họ không thể có giải pháp nào khác có thể
tu tập tự giải thoát.
Khi không còn luật
Đức Chúa Trời trong tâm hồn, hậu quả đó khiến loài người mỗi lúc xa dần đường lối
Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời không thay đổi những gì đã trù liệu (Tit 1:2) và Luật
pháp Đức Chúa Trời, hình thức bên ngoài phản ánh luật pháp khi “con người” còn
trong Eden, lại được ghi chép trên bảng đá, được ban hành cho con người để họ
nhận biết về các sai phạm nghịch lại với luật pháp Đấng toàn năng chí thánh và
ai đó muốn nên Công bình theo tiêu chuẩn củ Đức Chúa Trời phải chấp nhận và thi
hành toàn bộ luật pháp không được bỏ điều răn nào (Gia 2:10)[4].
Xin được nhắc lại: Đức Chúa Trời có hai điều răn chính để cho con người biết
cách thờ phượng Ngài; đó là, “Mến Chúa và Yêu đồng loại” (Mt 22:34-42). Từ hai
điều răn này Ngài chi tiết hóa thành 10 điều răn; sau đó, trong thời kỳ trông đợi
Đấng làm cho trọn luật pháp tức là lại đem luật pháp trên bảng đá ghi tạc vào
lòng người tin như ban đầu sáng thế, Moi-se đã tạm thời chi tiết hóa thêm khoảng
trên 600 điều răn, mạng lệnh khác để hướng dẫn dân sự thi hành đúng 10 điều răn.
Tóm tắt: Khi loài
người tự ý chọn đi trong đường lối riêng, tự lập luật pháp riêng khởi đầu là Adam
dẫn đến hệ quả; thứ nhất, đối với loài người, tất cả đã không thể tự nên công
chính theo cách riêng; đồng nghĩa, cũng không thể đến thẳng với Ngai ơn phước
là Đức Chúa Trời (St 3:24). Đời sống lúc này không có bình yên tức là sự yên
nghỉ hoàn toàn nơi Đức Chúa Trời (Sa-bat), mà là một chuỗi những ngày đầy bất
toàn thiếu sót và phải dâng hết của lễ này khác bằng các con sinh; thứ hai, nhưng
đối với Đức Chúa Trời, Ngài không hề thay đổi mục đích dẫu cho bất kỳ ngăn trở
nào, thế nên trong trường hợp loài người như vậy Ngài ban luật pháp để thứ nhất
hướng dẫn họ đến để tiếp nhận Đấng ban cho bình an (Ga 3:24) và muốn được xưng
công bình thì phải làm cho trọn các điều răn Ngài đã công bố. Các hình thức luật
pháp đem lại sự sống như vậy cũng đều phản ánh mục đích của Đức Chúa Trời để khi
người tiếp nhận thì được yên nghỉ (Sabat).
3. Sa-bat sau cứu chuộc (Eden thiêng liêng)
Adam, ông đã có
sự chọn lựa riêng sau những ngày tháng đi trong đường lối thánh tức là sự yên
nghỉ (Sa-bat) trong Đức Chúa Trời; cá nhân ông đã tự lập luật pháp riêng không
còn yên nghỉ trong Đức Chúa Trời nữa (tức là không còn vâng giữ lệnh truyền của
Đức Chúa Trời St 2:15-17) và việc ấy đã ảnh hưởng toàn nhân loại (Rm 5:12-14).
Ý riêng thì luôn hữu hạn và trong thực tế lịch sử nhân loại sau Adam đã minh chứng
về sự bất toàn đang diễn ra trên toàn thể thế giới.
Thực tế nêu trên,
chính là nan đề cần phải được giải quyết, và Đức Chúa Giê-su đã chỉ ra cách giải
quyết duy nhất như sau: “28 Hỡi những kẻ
mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29 Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy
gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30 Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.” (Mt
11:28-30).
Vậy, kẻ mệt mỏi
và gánh nặng là những ai?
Những ai không
tiếp nhận Đức Chúa Trời đồng nghĩa tư lập luật pháp riêng, đi trong đường lối
riêng hậu quả là các sai trật diễn ra trong cả cuộc đời khiến cho mệt mỏi cả
trong tinh thần và cả thể xác. Khác nữa, trong thời kỳ trông đợi Đấng cứu thế;
ngay cả nơi những người tin kính Đức Chúa Trời nhưng vì liên đới với Adam vẫn
không sao tránh khỏi thiếu sót và phải chấp hành các luật pháp như dâng sinh tế
để nhận biết tội vi phạm được khỏa lấp tội lỗi (He 9:7; 13:11).
Như vậy, để làm cho trọn
luật pháp công bình của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Giê-su cần phải nhập thể theo
công trình cứu độ bởi Đức Chúa Cha. Ngài đến thế gian để dâng mạng sống mình
làm của lễ chuộc tội y như các con sinh trong thời kỳ luật pháp còn trên bảng
đá, giấy da làm hình bóng (I Giăng 4:10). Ngay khi chuộc tội xong (Giăng 19:30)
về phương diện luật pháp có ít là bốn sự kiện trọng đại Đức Chúa Trời làm cho
nhân loại qua Đức Chúa Giê-su; thứ nhất, Đức Chúa Giê-su, Ngài đã đại diện cả
loài người làm thay và làm cho trọn luật pháp Đức Chúa Trời đòi hỏi nơi con người
trong thời kỳ chờ đợi để được cứu chuộc là thời kỳ mà con người không thể tự sức
riêng làm theo các đòi hỏi công bình trong luật pháp yêu cầu; thứ hai, các hình
thức của luật pháp 613 điều răn, mạng lệnh làm hình bóng kết thúc vai trò nhất
định nhằm chỉ ra sự đòi hỏi công bình theo tiêu chuẩn Đức Chúa Trời; thứ ba, luật
pháp 10 điều răn công bình của Đức Chúa Trời hằng còn đến đời đời bởi tánh chất
là thánh lại được đem vào trong lòng người tin (( Rm 7:12; He 8:10; 10:16). Và
người tin trong thời kỳ này bất luận sẽ cậy nhờ Thần Đức Chúa Trời để thi hành
mọi đòi hỏi công bình được ghi khắc trong lòng theo cách mới mà không theo cách
cũ của văn tự đây là cách làm cho vững bền luật pháp (Rm 3:31; 7:6); thứ tư, bởi
vì sự liên đới với Adam vẫn còn trên người tin mặc dầu đã được xưng công bình
cho nên: luật pháp 10 điều răn vẫn còn cần được duy trì cho đến khi: Muôn vật đổi
mới, Muôn vật phục quyền Đức Chúa Giê-su (He 2:8; Mt 19:28; 5:17-18).
Kết thúc:
Qua ba thời kỳ lịch sử
thuộc linh: Trong Eden – Ngoài Eden – và Eden thiêng liêng; kinh thánh đã cho
biết về mục đích Đức Chúa Trời thực hiện cho nhân loại; đó là ban sự sống đời đời.
Để tiếp nhận sự sống đời đời mà Đức Chúa Trời thực hiện cho, nhân loại nói
chung cần nhận biết và tiếp nhận các điều răn mạng lệnh công bình của Ngài.
Sự tiếp nhận luật pháp
công bình bởi Đức Chúa Trời và làm theo chính là sự yên nghỉ trong sự quan
phòng của Đức Chúa Trời mà ý nghĩa của từ ngữ Sa-bát hàm ý. Sự tiếp nhận để yên
nghỉ ấy đồng nghĩa với việc không tự lập luật pháp riêng, không đi trong đường
lối riêng như Adam và con cháu ông mà hậu quả hôm nay vẫn đang diễn ra trong cả
nhân loại.
Như vậy, ý nghĩa về
Sabat nói chung, không thể được hiểu một cách nông cạn đại loại như là cứ vào
thứ bảy hằng tuần là phải nghỉ các công việc để thờ phượng Đức Chúa Trời.
Sa-bát cần phải được hiểu theo cách của Đức Chúa Trời đó là phải nhờ vào Danh Đức
Chúa Giê-su tiếp nhận quyền năng là Thần Đức Chúa Trời để tuân theo mọi điều
răn, mạng lệnh, lời dạy của Ngài trong đời sống đó chính là Sa-bát đích thực mà
ngày Sa-bát mỗi tuần là hình bóng cho đến khi muôn vật đổi mới – muôn vật phục
dưới chân Đức Chúa Giê-su. Chính lúc ấy trời mới đất mới mở ra và cũng là lúc nếu
như cần xem xét lại quá khứ như một điều cần thiết để tạ ơn Đức Chúa Trời, con
người sẽ phải hoài niệm, phải đi tìm 10 điểu răn nhưng không thấy bởi nơi đâu
có luật tức là nơi ấy đang có gánh nặng nề và ách đau khổ; ngược lại, nơi đâu
không có luật tức là nơi ấy không có sai phạm, nơi ấy đang yên bình (Sa-bat).
Thực tế, mặc dầu vẫn biết
mọi tội đã được tha mọi luật pháp công bình đã được Đức Chúa Giê-su làm thay! nhưng
sự liên đới với Adam vẫn tồn tại trong thân xác dẫn đến vẫn còn các sai phạm mà
không yên nghỉ hoàn toàn trong Đức Chúa Trời (Rm 7:18-19). Vậy, trong khi chờ đợi: Trời mới đất mới xuất
hiện – Muôn vật đổi mới – Muôn vật phục dưới chân Đấng Christ chúng ta vẫn cần
đến 10 điều răn Đức Chúa Trời tức là chính Đức Chúa Trời đang cư ngụ trong lòng
để luôn được an nghỉ như luật pháp về sự yên nghỉ được dự phóng nơi tuyển dân
và là bóng cho hình hôm nay nơi những ai
muốn được yên nghỉ trong Đức Chúa Trời đời đời đúng như tinh thần sách E-sai
nói tới[5]
(Mt 19:28; He 2:8; E-sai 66:22-23).
Lê Văn
[1]
Khi có Đức Chúa Trời cư ngụ trong lòng việc cư ngụ đó đồng nghĩa với luật pháp
được ghi tạc trong lòng (He 8:10; 10:16)
[2] Đức
Chúa Trời sáng tạo trái đất và mọi vật trong đó “rất tốt đẹp” theo tiêu chuẩn
thánh và công bình của Ngài. Đây là một nguyên tắc nhất định không cho phép người
đọc suy tư gì khác hơn, là theo nghĩa đen và kế tiếp nếu có thì cả trái đất
hoàn toàn là “Eden”. Nhưng kinh thánh cũng đồng thời cho biết một Eden khác
trên đất là nơi Ngài đặt con người và con người đầu tiên đó là Adam!!! Vậy có
mâu thuẫn không khi cả trái đất đã là Eden rồi thì tại sao lại phải “thiết lập
một Eden khác” để đặt con người mà Ngài vừa sáng tạo ở đó.
Đây là một mầu nhiệm và mầu nhiệm này đã được sáng tỏ
khi người đọc tìm thấy luận lý tại sao lại có mạc khải là kinh thánh và tại sao
phải mãi đến khi có tuyển dân. Thực vậy, như đã nói ở trên kinh thánh được mạc
khải khi loài người không có Đức Chúa Trời ở cùng; dó đó, thứ nhất, kinh thánh
không nhất thiết phải theo cách của loài người để trình bày, ngoài những điểm
căn bản cần thiết cho mọi thành phần để được cứu rỗi; thứ hai, thực trạng hôm
nay đang diễn ra giữa các quốc gia trong đó Is-ra-el là trung tâm của các lời
tiên tri về kỳ tận cùng dần đang được ứng nghiệm đã làm sáng tỏ về khía cạnh Đức
Chúa Trời thiết lập một Eden trên đất và đặt con người mà Ngài vừa sáng tạo ở
đó (St 2:8).
[3] Mục
đích không thay đổi về sự yên nghỉ đời đời Đức Chúa Trời thực hiện nơi Adam thế
nào thì cũng được kinh thánh lập lại khi có tuyển dân theo một hình thức khác,
và cần thay đổi trở về như ban đầu nơi Adam còn được gọi là làm cho trọn khi Đức
Chúa Giê-su hoàn thành sự cứu chuộc (Xh 31:13-16; Mt 5:17-18).
[4] Sở
dĩ Đức Chúa Trời bắt buộc người muốn nên công bình theo tiêu chuẩn của Ngài phải
thi hành như vậy; vì thứ nhất, Ngài muốn minh chứng cho nhân loại một khi đã
chon theo đường riêng, luật pháp riêng nhận ra sự bất lực khi không có Ngài
trong đời sống; thứ hai, để cho nhận thức được giá trị về tiêu chuẩn thánh và
công bình của Ngài.
[5] Ngày
trăng mới hay Sa-bat được viết trong E-sai 66 chỉ về ý nghĩa thiêng liêng mà
thôi; vì trong trời mới đất mới khi được thiết lập trở lại; lúc ấy, con người
luôn có Đức Chúa Trời ở cùng thì cần chi đến các dấu chỉ hình bóng nữa. Như vậy
ý nghĩa mà ngày Sa-bat, hay các ngày lễ khác được luật pháp quy định là Sa-bat
trong đó có ngày trăng mới phải được chấm dứt vai trò trung gian. Xin lưu ý,
ngay sau khi Đức Chúa Giê-su hoàn thành việc cứu chuộc (Giăng 19:30) thì ngày
Trăng mới đã phải chấm dứt rồi; nay được nhắc lại trong E-sai 66 chẳng qua là
nhắc đến tinh thần của ngày Sa-bat trăng mới mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét