A.
Nội dung :
Do thái 3:1 1 Đức Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung
Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin.
- Ngôn-sứ.
- Trung gian.
- Thượng tế tối
cao duy nhất đời đời.
Tất cả ba nhiệm vụ nêu trên đều thực hiện bởi công trình của
Thiên-Chúa ở nơi Ngài.(Roma15:25-26.
Colose 1:26. 2:2)
B.
Trình Bày :
Đức Chúa Giê-su ngài là :
Đức Chúa Giê-su ngài là :
1.
Ngôn sứ :
Loài người sau Adam tất cả đều đi theo đường riêng, đều đã
sai trật trong cách sống; dẫu cho có người công bình không sai trật trong cách sống thỉ vẫn bị cái chết khống chế. Các
tổ phụ đức tin cũng bị cái chết khống chế dẫu họ được Chúa xưng là công bình
(Hebrew, Do-thái 11:3-40). Đức Chúa Giê-su phải nhập thể làm người để
rao giảng về “Đạo” Đức Chúa Trời; về con đường đem lại sự sống đời đời; sự kẻ
chết sống lại và sống mãi mãi không hề chết nữa. Với thánh chức đó Ngài được lời Chúa trong kinh thánh xem như một ngôn sứ trực tiếp từ Thiên-Cha.
Gioan 18:37 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi : “Vậy ông là vua sao ?” Đức Giê-su đáp : “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
Gioan 18:37 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi : “Vậy ông là vua sao ?” Đức Giê-su đáp : “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
Gioan 7:14-17 14 Vào giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên Đền Thờ và
giảng dạy. 15 Người Do-thái lấy làm ngạc
nhiên. Họ nói : “Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế
!” 16 Đức Giê-su trả lời : “Đạo
lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. 17 Ai muốn làm theo ý của Người, thì sẽ biết rằng
đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy….. 25 Bấy
giờ có những người ở Giê-ru-sa-lem nói : “Ông này không phải là người họ đang
tìm giết đó sao ? 26 Kìa, ông ta ăn nói công
khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận
ông là Đấng Ki-tô ? 27 Ông ấy, chúng ta biết
ông xuất thân từ đâu rồi ; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng ai biết
Người xuất thân từ đâu cả.” 28 Lúc giảng dạy
trong Đền Thờ, Đức Giê-su nói lớn tiếng rằng : “Các ông biết tôi ư ? Các ông
biết tôi xuất thân từ đâu ư ? Tôi đâu có
tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không
biết Người. 29 Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi
Người mà đến, và chính Người đã sai tôi
Luca 4:43 43 Nhưng Người nói với họ : “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Luca 4:16-30 16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng : 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau : “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?” 23 Người nói với họ : “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !” 24 Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông : không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en ; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Luca 4:43 43 Nhưng Người nói với họ : “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Luca 4:16-30 16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng : 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau : “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?” 23 Người nói với họ : “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !” 24 Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông : không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en ; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Gioan 4:34 34 Đức
Giê-su nói với các ông : “Lương thực của
Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất
công trình của Người. (Gioan 3:2,17,34. 4:19, 34,44. 5:23 . Luca 10:16 . 20:9-19. 4:43 (59
từ “sai đi”)
Lu 1:28 28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng
đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” … 30 Sứ thần
liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. … 34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy
ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !” … 35
Sứ thần đáp : “Thánh Thần
sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế,
Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.
Chúa Giê-su không bị ảnh hưởng bởi sự bất toàn do Adam truyền
sang; mặc dầu do Mẹ Ma-ri-a là loài thọ tạo mang thai và hạ sinh; nhưng thai
dựng trong lòng mẹ là bởi Thánh thần Chúa. Do vậy khi làm người trên đất, Người
là con người hoàn toàn không bị tội lỗi chi phối nên Chúa Giê-su hội đủ tư cách
để gánh tội, đền tội thay cho loài người qua sự chết thay. Là Đấng vô tội,-Ngài
đã lấy thân thể bằng xác thịt để ra đời và cũng thân thể đó Ngài làm của lễ để
đền tội thay cho cả nhân loại (Do thái, Hebrew 10:1-10). Tất cả những tiêu
chuẩn đó chỉ hội đủ duy nhất nơi Chúa Giê-su khiến Chúa Giê-su đã trở nên Đấng
trung gian duy nhất giữa Thiên-Chúa và loài người :
Côngvụ 4:10-12 10
Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng :
chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh
vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy
mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. 11 Đấng ấy là tảng đá mà quý vị
là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. 12 Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ ;
vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để
chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.”
I Timothe 2:5 Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người : đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, (Do thái 8:6. 9:14-15. 12:24)
I Timothe 2:5 Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người : đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, (Do thái 8:6. 9:14-15. 12:24)
3.
Thượng tế duy nhất đời đời :
Sau khi Adam vi phạm, ông là kẻ chết đối với đòi hỏi của tiêu chuẩn thánh, công bình của Thiên-Chúa; dẫn đến con cháu ông cũng chịu ảnh hưởng và trước thánh nhan Thiên-Chúa họ cũng chỉ là những kẻ chết biết thở. Các thầy tế lễ bởi loài người cũng chịu chung số phận là phải chết nên không giữ được chức vụ. Chúa Giê-su vì là Đấng vô tội, Ngài đã chịu chết thay cho cả loài người, và mạng sống của Ngài chính là của lễ duy nhất vẹn toàn có giá trị đời đời và vì Ngài hằng sống nên chức vụ tế lễ mãi mãi không thay đổi.
Sau khi Adam vi phạm, ông là kẻ chết đối với đòi hỏi của tiêu chuẩn thánh, công bình của Thiên-Chúa; dẫn đến con cháu ông cũng chịu ảnh hưởng và trước thánh nhan Thiên-Chúa họ cũng chỉ là những kẻ chết biết thở. Các thầy tế lễ bởi loài người cũng chịu chung số phận là phải chết nên không giữ được chức vụ. Chúa Giê-su vì là Đấng vô tội, Ngài đã chịu chết thay cho cả loài người, và mạng sống của Ngài chính là của lễ duy nhất vẹn toàn có giá trị đời đời và vì Ngài hằng sống nên chức vụ tế lễ mãi mãi không thay đổi.
Do thái 7:17, 21 , 23-24 17 Quả thật, có lời chứng nhận rằng : Muôn thuở,
Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
21 còn Đức Giê-su khi trở nên tư tế, thì lại có lời thề của Đấng nói với Người : Đức Chúa đã thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng : Muôn thuở, Con là Thượng Tế.
23 Lại nữa, trong dòng tộc Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó.
24 Còn Đức Giê-su, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi.
Do thái 4:14-16 14 Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. 15 Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. 16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
Do thái 5:1-10 1 Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. 2 Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối ; 3 mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. 4 Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. 5 Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, 6 như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác : Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. 7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, 10 vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
21 còn Đức Giê-su khi trở nên tư tế, thì lại có lời thề của Đấng nói với Người : Đức Chúa đã thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng : Muôn thuở, Con là Thượng Tế.
23 Lại nữa, trong dòng tộc Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó.
24 Còn Đức Giê-su, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi.
Do thái 4:14-16 14 Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. 15 Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. 16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
Do thái 5:1-10 1 Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. 2 Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối ; 3 mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. 4 Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. 5 Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, 6 như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác : Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. 7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, 10 vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Tóm tắt về Chúa Giê-su :
Chúa Giê-su là người thực hiện kế hoạch đời đời của
Thiên-Chúa Cha. Sách Châm ngôn viết : Chúa Giê-su là thợ cả của Đức Chúa Trời
(Cn 8:30).
Trong kế hoạch cứu chuộc, Chúa Giê-su phải nhập thể làm
người, Ngài đi loan báo về nước Thiên-Chúa, sự cứu độ và sự sống lại và sống đời
đời; nói cách khác Ngài đi rao giảng về “đạo” của Đức Chúa Trời (Gioan 7:16).
Với trọng trách đó kinh thánh viết về Ngài như một ngôn sứ của Chúa trời.
Dân Israel xưa, Chúa tuyển chọn, là hình ảnh chỉ về dân
Chúa hôm nay sau khi Chúa Giê-su chuộc tội thay. Dân tuyển chọn xưa cũng có các
thầy tế lễ được lập ra để thay dân dâng các lễ tế. Các thầy tế lễ đó cũng là
hình bóng chỉ về Chúa Giê-su là trung gian giữa Thiên-Chúa và dân Ngài; nhưng
họ không giữ được chức vụ vì phải chết; ngược lại Chúa Giê-su,-Ngài hằng sống
nên giữ mãi chức vụ tế lễ bằng chính của lễ là mạng sống Ngài và qua đó ngài
nắm giữ nhiệm vụ trung gian giữa Thiên-Chúa Cha và loài người hôm nay. Lời Chúa
cho biết chỉ có duy nhất một Đấng trung gian (trung bảo) giữa Thiên Chúa và
loài người mà thôi, và đó chính là Chúa Giê-su.
C.
Những vấn đề cần quan tâm :
1.
Trong kế hoạch cứu độ
của Thiên-Chúa, Chúa Giê-su nắn giữ các thánh chức, với tính chất của các chức
vụ thánh đó khiến thánh kinh cho biết về các chức vụ đó bao gồm ?
2.
Phân biệt giữa chức vụ
Ngôn-sứ của Ngài với chức vụ ngôn sứ loài người, theo nguyên tắc lãnh đạo (làm
đầu) ?
3.
Trình bày về tính chất
chức-vụ thượng-tế thánh của Chúa Giê-su . Ngày nay, ai được đảm nhận chức vụ
thánh đó như Ngài ?
4.
Phẩm vị của Đấng trung
gian, và có mấy đấng trung gian? Ai là
người cầu thay nguyện giúp cho chúng ta ? (Roma
8:26-27. I Gioan 2:1)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét