Thứ Ba, 19 tháng 1, 2016

MẠC KHẢI VÀ THẦN HỌC (Phần một)

20 Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. 21 Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời. (II Phê-rô, Phi-e-rơ 1:20-21)

Mở đầu
Con người là một sinh vật đặc biệt nhất trong vũ trụ hữu hình; ít là ở khả năng tư duy và quản trị. Cũng vậy, khi mà đời sống vật chất khá hơn thì nhu cầu tinh thần cấp thiết cần được đặt ra. Suy tư về sự hiện hữu của chính mình và xa hơn là các đấng bậc thần thánh thiêng liêng cao cả để sau đó là các hình thức tôn thờ v.v... Suy tư về thần thánh dẫn đến hành vi thực hiện các nghi thức đối đãi với Đấng bậc cao cả ấy xem như một môn học mà nhiều người có tín ngưỡng vẫn thường nói là thần học. Danh từ Thần học lại càng đặc biệt đối với các Ki-tô hữu (Cơ đốc nhân) khi mà họ đối diện với kinh thánh là lời mạc khải từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng siêu việt.
Vậy thần học có thể nói chỉ đơn giản chỉ những suy tư về thần thánh phát xuất bởi chính nhu cầu thẳm sâu trong tâm hồn mỗi con người; nó thúc đẩy để con người được thỏa mãn một cách chính đáng về Đấng mà họ ngưỡng vọng. Khi chưa có mạc khải con người luôn khao khát tìm kiếm cho mình một tín ngưỡng và sự khao khát đó đã thúc đẩy suy tư con người vượt xa khỏi giới hạn tự chính họ ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh. Nhưng dẫu cho những suy tư tìm kiếm đó tầm mức thế nào đi nữa thì tất cả chỉ là sự phản ánh những khao khát của con người, và một điều chắc chắn: con người không phải là vô hạn bởi họ chỉ là loài thọ tạo. Bởi vậy, mạc khải đã mang đến cho con người những suy tư đúng hơn, cần thiết hơn để giải quyết những vấn đề nhân sinh cả về tinh thần lẫn vật chất. Mạc khải chính là lời chân lý trong kinh thánh nó bày tỏ nhiều khía cạnh mà con người thường suy tư cố gắng tìm kiếm: Tôi là ai? Thượng đế là Đấng nào, có thực hữu không? Tại sao có đau khổ và sự chết? v.v… Mạc khải đã cung cấp mọi lời giải đáp cho những suy tư muôn đời đó của con người.

Trong bài này chúng tôi đưa ra hai phương diện của một vấn đề thường gọi là thần học một môn nghiên cứu về đức tin; phương diện thứ nhất, suy tư thuần túy con người về Đức Chúa Trời qua mạc khải; phương diện thứ hai, suy tư về Đức Chúa Trời nhưng mạc khải là cứu cánh. 

·         Suy tư thần học khi có lời mạc khải
Con người là một sinh vật đặc biệt bởi được dựng nên giống hình ảnh Đức Chúa Trời. Một khía cạnh nói lên hình ảnh Đức Chúa Trời nơi con người đó là đặc tánh độc lập nơi mỗi cá nhân còn được gọi là một ngôi vị.
Một định nghĩa về thần học phản ánh khía cạnh độc lập này: “Thần học là điểm gặp gỡ giữa đức tin và lý trí, nơi mà mỗi bên phải được biện minh bởi sự phán quyết của bên kia.” [1] Đặc tánh độc lập nó quan trọng cho con người nếu không họ chẳng thể giống như Đức Chúa Trời và họ chỉ là những bản sao mô phỏng từ những thực thể nào khác. Mặc dầu, sự độc lập chỉ là một khía cạnh trong một tổng thể những khía cạnh được gọi là giống hình ảnh Đức Chúa Trời. Sự độc lập của con người khiến cho họ có tư cách riêng khác với tất cả các tạo vật khác bởi ít nhất ở tánh trách nhiệm mà định nghĩa về thần học nêu trên đã phản ánh.
Trở lại vấn đề, con người có thẩm quyền suy tư tìm hiểu về Đấng mà họ ngưỡng vọng bởi đây là nhu cầu cấp thiết khi nhu cầu về vật chất đã được thỏa đáng. Chúng ta nhận thấy nhiều tôn giáo hình thành và phát triển trong xã hội loài người, và không ít nơi họ các giáo lý, giáo huấn, tôn chỉ mong mỏi đạt đến chân thiện là cùng đích của Đấng tối cao theo quan điểm bởi suy tư về Đấng mà họ nhận biết.
Suy tư về Đức Chúa Trời lại càng cấp thiết hơn khi lời mạc khải ra đời, thẩm quyền đúng ra và chỉ có một, nhưng tánh độc lập của con người vẫn luôn được đặt ra. Đối với hệ thống Cơ đốc giáo (Ki-tô giáo) nơi một vài hệ thống thần học cũng có phần phản ánh về tánh độc lập trong các suy tư về Đức Chúa Trời là Đấng họ tôn thờ. Họ dùng lý trí để biện phân về đức tin và bởi đã có mạc khải cho nên sự biện phân đó cần đến sự độc lập của cả hai. Nhưng sự độc lập ở một mức độ nào đó nơi con người thường khi lại khiến họ quên đi một điểm tối quan trọng; đó là, Đấng sáng tạo và loài thọ tạo. Ở điểm này con người thường không ý thức một cách triệt để, khi mà họ đạt đến một nhận thức về tinh thần và các thành quả về vật chất nào đấy!
Một ví dụ về tánh độc lập nơi suy tư thần học qua trích đoạn mạc khải sau đây: 25 Tại một bên thập tự giá của Đức Chúa Jêsus, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ Ngài và Ma-ri vợ Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len nữa. 26 Đức Chúa Jêsus thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần người, thì nói cùng mẹ rằng: Hỡi đàn bà kia, đó là con của ngươi! 27 Đoạn, Ngài lại phán cùng người môn đồ rằng: Đó là mẹ ngươi! Bắt đầu từ bấy giờ, môn đồ ấy rước người về nhà mình.” (Gioan, Giăng 19:25-27). Nội dung trong trích đoạn trên đây được hệ thống suy tư thần học Công giáo giải nghĩa như sau: Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời. Mẹ Ma-ri-a sanh hạ Đức Chúa Trời tất nhiên Ngài là mẹ Đức Chúa Trời. Ông Gioan (Giăng) là người thế gian nay được Đức Chúa Trời trao cho Mẹ với tư cách là con[2]. Vậy suy ra Đức Chúa Trời đã trao mọi tín hữu cho Đức Mẹ và thêm nữa tín hữu cần phải nhờ Đức Mẹ để đến với Đức Chúa Trời. Suy tư như thế đâu có gì sai nếu như trích đoạn mạc khải trên, nghĩa đen, đúng như thánh ý Đức Chúa Trời !?! (Gioan, Giăng 19:25-27).
Từ ví dụ trên đây, chúng ta chỉ nêu ra vấn đề độc lập giữa hai bên một là mạc khải và hai là suy tư của con người về nội dung mạc khải. Nếu nội dung mạc khải đúng theo như suy tư của con người thì vấn đề đơn giản hơn nhiều đối với vị trí loài thọ tạo, nhưng nếu suy tư đó không đúng như mạc khải tức là không đúng như thánh ý Đức Chúa Trời thì suy tư đó phản ánh gì về nội tâm của con người – một tạo vật thuần túy mà không phải Đấng sáng tạo là chủ tể và có mục đích cho mọi loài thọ tạo (Co 1:15-16). Như vậy, vấn đề giới hạn cần được đặt ra cho những suy tư chỉ thuần túy bởi tri thức loài người về Đấng cao cả siêu việt mà mình tôn thờ thường được gọi là suy tư “thần học” bởi chân lý minh nhiên được mạc khải công bố sau đây: “20 Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. 21 Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (II Phi-e-rơ, Phê-rô 1:20-21).

·         Suy tư thần học nhưng mạc khải là cứu cánh
Đức Chúa Trời đâu muốn dựng nên con người và biến họ thành những cỗ máy được lập trình sẵn để thực hiện những công việc nhất định nào đó; trái lại, Ngài dựng nên họ “giống như hình ảnh Ngài” và trao vào tay họ thẩm quyền quản trị mọi loài hữu hình.
Con người bởi Adam mà ra và cần phải được tái sanh để được sống đời đời vì những gì liên đới qua việc truyền sinh (Gioan, Giăng 1:12-13; Rm 5:12; I Co 15:22). Đức Chúa Trời muốn như vậy còn con người có quyền lựa chọn; chọn Ngài để được tái sanh hay chọn một cứu cánh nào khác. Kinh thánh ví người tin kính chọn Đức Chúa Trời như một người chuẩn bị lập gia đình và người tin kính lại là cô dâu. Và cô dâu này phải có sự chọn lựa trong ý thức độc lập về chồng của mình là Đức Chúa Trời. Suy tư về đức tin cũng vậy, nó là thẩm quyền tuyệt đối biện minh cho đức tin để không phải là tin vơ thờ quấy.
Như đã nói ở trên về giới hạn của thọ tạo và chúng ta nhận ra rằng suy tư không thể chỉ độc lập trong  giới hạn của thọ tạo mà phải cần đến ánh sáng mạc khải để biện minh cho suy tư về đức tin của mình theo tiêu chuẩn thiên thượng. Một vài trích đoạn Lời mạc khải sau đây cho chúng ta ánh sáng về điểm này:
6 Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ;” (B/d Truyền thống Philip 2:6)
6 Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,” (B/d Giờ kinh phụng vụ Công giáo)
8 Nhưng nói về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia, Quyền bính của nước Chúa là quyền bính ngay thẳng.(Hebrew 1:8 B/d Truyền thống)
8 Nhưng về Người Con, thì Kinh Thánh lại nói : Lạy Thiên Chúa, ngôi báu Ngài sẽ trường tồn vạn kỷ ! Vương trượng Ngài, vương trượng công minh.” (Hebrew 1:8. B/d Giờ kinh phụng vụ Công giáo).
Nếu chỉ trích ngang lời mạc khải, cho dẫu trọn cả câu văn như trên rồi từ đó suy tư về Đức Chúa Giê-su thì ý nghĩa sẽ không khác nội dung chúng ta thấy ở trên. Chỉ thuần túy suy tư qua nội dung lời mạc khải trích ngang sẽ rất phiến diện vì như vậy lý trí con người đã can thiệp vào ý nghĩa toàn diện của lời mạc khải.
Chúng ta sẽ đọc thêm các trích đoạn khác xem sao:
42 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ví bằng Đức Chúa Trời là Cha các ngươi thì các ngươi sẽ yêu ta, vì ta bởi Đức Chúa Trời mà ra và từ Ngài mà đến; bởi chưng ta chẳng phải đã đến tự mình đâu, nhưng ấy chính Ngài đã sai ta đến.” (Gioan, Giăng 8:42. B/d Truyền thống)
42 Đức Giê-su bảo họ : “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi.” (Gioan, Giăng 8:42. B/d Giờ kinh phụng vụ Công giáo)
Không thể phát biểu đơn giản rằng Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời khi chỉ căn cứ vào hai trích đoạn Hebrew và Philip trên đây được, mà lời mạc khải còn chỉ ra rằng Đức Chúa Giê-su không tự mình mà có – trái lại Ngài “bởi Đức Chúa Trời mà ra” hay “tôi phát xuất từ Thiên Chúa”. (Mặc dầu không thể giải nghĩa việc Đức Chúa Giê-su “bởi Đức Chúa Trời mà ra” hay “tôi phát xuất từ Thiên Chúa” là thế nào, bởi đây là điều vượt qua trí hiểu của loài thọ tạo.) Trở lại vấn đề Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời! chúng ta còn các lời mạc khải khác nữa nói về địa vị của Đức Chúa Giê-su sau đây:
19 Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người,” (Colose 1:19. B/d Giờ kinh phụng vụ Công giáo)
19 Vì chưng Đức Chúa Trời đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài,” (Colose 1:19. B/d Truyền thống)
Địa vị Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời! bởi Đức Chúa Trời đã vui lòng làm như vậy nơi Đức Chúa Giê-su nhưng cá nhân Đức Chúa Giê-su không thể là chính Đức Chúa Trời mà Ngài là “Con một” từ Đức Chúa Trời mà ra bởi chính Đức Chúa Giê-su và Đức Chúa Trời là hai ngôi vị riêng biệt. Cũng cần biết thêm chính các sứ đồ (tông đồ) cũng chưa ai dám xưng Đức Chúa Giê-su là chính Đức Chúa Trời.[3]
Chúng ta không thể không suy tư về Đấng mà chúng ta tôn thờ. Nhưng suy tư một cách độc lập hoặc trích ngang lời mạc khải làm luận cứ hỗ trợ cho các kết quả suy tư lại là một điều khác; rất có thể các việc làm đó đều vượt xa phạm vi của con người, loài thọ tạo luôn cần đến ánh sáng là chân lý từ thiên thượng. Việc trích ngang Lời mạc khải để suy tư luận giải, mặc nhiên, chúng ta xem mình ngang hàng với Đấng ban Lời mạc khải. Vẫn biết Lời mạc khải là trọng tâm, là khởi nguồn cho mọi suy tư thần học nhưng câu trả lời cuối cùng vẫn bởi Thần khí sự sống soi sáng và sự tổng cộng hay căn nguyên của lời mạc khải bởi đơn giản đó là LỜI MẠC KHẢI (Tv, Thi 119:160).

Kết thúc
Có thể nói rằng: suy tư của con người chính là đi tìm về “mạc khải”, tìm đến chân lý nhưng giới hạn của suy tư, bởi chủ thể nó là thọ tạo và những suy tư thần học thuần túy không thể đạt đáo chân lý thiên thượng. Chính vì vậy, thượng đế là Đức Chúa Trời cao cả đã thông ban lời Chân lý là Lời mạc khải (kinh thánh) cho nhân loại. Đừng nhầm lẫn giữa Thần học và Lời mạc khải hoặc xem thần học ngang như lời mạc khải! Adam dần dà qua thời gian đã không còn kính sợ Đức Chúa Trời bỏ qua giao ước mà Đức Chúa Trời đã thiết lập về sự sống đời đời tự đi tìm cho mình con đường sống khác ngoài Đức Chúa Trời. Việc Adam tự đi tìm đó chính là những suy tư (thần học) nhưng không xem lời giao ước tức là lời mạc khải là cứu cánh sau cùng cho những suy tư mà trái lại xem lời “mạc khải” bởi tạo vật là cứu cánh hoặc giá trị như Lời mạc khải thiên thượng. Hành động đó của Adam đã khiến cho vị trí của ông ngang bằng với Đức Chúa Trời (St 3:22) và hậu quả thật khôn lường nơi cuộc sống con người mọi thời đại.
 Thần học là suy tư, là nhu cầu niềm tin của con người, nó phản ánh những phẩm chất được Đức Chúa Trời làm nên nơi mỗi cá nhân nhưng nếu nó nghịch lại những gì đã được mạc khải thì vô cùng nguy hiểm cho sự sống đời đời bởi mọi sự trong trời đất đều bởi Đức Chúa Trời làm nên và Ngài có thẩm quyền điều động theo như kế hoạch của Ngài và Lời mạc khải đã được công bố để điều động đời sống con người mọi mặt theo đường lối công chính và thánh hầu cho ai tin kính thì được sự sống thật là Đức Chúa Giê-su thay vì phải suy tư tìm kiếm tự sức riêng của loài thọ tạo bất toàn (II Phê-rô, Phi-e-rơ 1:20-21).

Viết bởi Lê Văn



[1] Tam Chung. Thần Học Là Gì?. Dịch từ nguyên bản : Chương 1:“What is Theology?”  trong sách “ Introducing Contemporary Theologies”của Neil Ormerod,Nhà Xuất Bản Orbis Books, Maryknoll, New York 1997). Truy Cập Ngày 16/01/2016 Tại: http://dcvxuanloc.net/thi-thuc/than-hoc/than-hoc-la-gi.html

[2] Tanila. Hoàng Đắc Ánh. Lịch Sử Cứu Độ. Học Viện Đa Minh. Trang 77. Sai-gon 2004.
[3] Nguyễn Khắc Hy. Lm. Lịch Sử Thần Học Chúa Ba Ngôi. Truy Cập Ngày 12/12/2015 Tại:  http://www.dcvxuanloc.net/dcv/index.php/chuyen-de/tri-thuc/than-hoc/177-lich-su-than-hoc-chua-ba-ngoi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét