“BÍ TÍCH THÁNH THỂ” THIÊN CHÚA THIẾT LẬP
VÀ GIÁO LÝ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VỀ “BÍ
TÍCH THÁNH THỂ”
Biên soạn : Lê Văn Bình
“Qua
hình thức lương thực, cách nhận và cách dùng của Chúa Giê-su cũng như lương thực,
cách nhận và cách dùng của người tin Chúa, chúng ta nhận ra một điều hệ trọng hình
bóng và là ý nghĩa đích điểm của việc ăn uống như sau : Người không tin Chúa sẽ không nhận được giáo huấn là lương thực thánh sạch
đem lại sự sống đời đời và họ sẽ phải dung nạp nhiều giáo huấn chỉ bởi loài người
vốn đã ô-uế do sự liên đới với Adam. Nhưng ngược lại người tin Chúa sẽ nhận được
sự sống đời đời bởi chính giáo huấn là lương thực thánh khiết thường tồn trong
hành trình về đất hứa là “trời mới đất mới” sẽ được thiết lập trong tương lai
khi Chúa Giê-su trở lại.”
Kinh thánh dành cho hết thảy mọi người,
nhưng ngược lại không phải ai cũng có thể đọc và lại lãnh hội được những giáo
huấn tinh tuyền mầu nhiệm chứa đựng trong đó; ngoại trừ được chính Thiên Chúa
tái sanh ! Thực vậy, chỉ có người được tái sanh thực sự mới có thể hiểu đúng và đủ để an
tâm, mạnh mẽ thi hành những gì theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa (Colose
3:10. Ehp 4:21-23. Do thái, He 8:9-11. I Gioan 2:22).
Mong rằng quý độc giả, là người đang đọc những dòng này tất cả đều đã được
Thiên-Chúa Tái sanh !
Trước hết chúng tôi xin nói về “bí tích
thánh thể” được diễn giải qua giáo lý của Giáo hội Công giáo.
A.
Giáo lý Công giáo
về “bí tích thánh thể”
Những mục có chữ in nghiêng dưới đây,
nội dung được trích trong phần toát yếu giáo lý về bí tích thánh thể của hội
thánh Công giáo (bản dịch Việt ngữ của ủy ban Giáo lý Đức tin hội đồng Giám mục
Việt năm 2006).
271. Bí tích Thánh Thể là gì?
1322-1323
1409
Bí tích Thánh Thể là chính hy tế Mình
và Máu của Chúa Giêsu, mà Người đã thiết lập để lưu tồn hy tế thập giá của
Người qua bao thế kỷ cho đến khi Người lại đến. Như thế, Người ủy thác cho Hội
thánh việc tưởng nhớ cái Chết và cuộc Phục sinh của Người. Bí tích Thánh Thể là
dấu chỉ hợp nhất, dây bác ái, bữa tiệc vượt qua, nơi chúng ta lãnh nhận Ðức
Kitô, linh hồn được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm cho đời sống vĩnh cửu.
272. Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh
thể khi nào?
1323
1337-1340
Người đã thiết lập Bí tích Thánh Thể
vào ngày Thứ Năm tuần thánh, "trong đêm bị trao nộp" (1 Cr 11, 23),
khi Người ăn bữa tiệc cuối cùng với các Tông đồ của Người.
273. Người đã thiết lập Bí tích Thánh Thể
như thế nào?
1337-1340
1365, 1406
Sau khi qui tụ các Tông đồ trong nhà
Tiệc ly, Chúa Giêsu cầm lấy bánh trong tay, bẻ ra và trao cho các ông mà nói:
"Anh em hãy nhận lấy mà ăn: này là Mình Thầy bị nộp vì anh em". Rồi
Người cầm trong tay chén đầy ruợu và nói với họ: "Anh em hãy nhận lấy mà
uống: này là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu, đổ ra cho anh em và
nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy".
274. Bí tích Thánh Thể có ý nghĩa gì trong
đời sống của Hội thánh?
1324-1327
1407
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và
tột đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô giáo. Thánh Thể là tột đỉnh hoạt động thánh
hóa của Thiên Chúa đối với chúng ta và là tột đỉnh của hoạt động phượng tự
chúng ta dâng lên Ngài. Bí tích Thánh Thể chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng
của Hội thánh, đó chính là Ðức Kitô, Ðấng là Chiên Vượt qua của chúng ta. Việc
hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa và sự hợp nhất của dân Thiên Chúa được
diễn tả và thực hiện nhờ Bí tích Thánh Thể. Qua việc cử hành Thánh lễ, chúng ta
được kết hợp với Phụng vụ trên trời và tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu.
275. Bí tích này còn được gọi bằng những tên
gọi nào?
1328-1332
Nguồn phong phú vô tận của Bí tích
này được diễn tả qua nhiều tên gọi khác nhau, gợi lên những khía cạnh đặc biệt.
Những tên gọi thông dụng nhất là: Thánh Thể, Thánh lễ, Bữa tiệc của Chúa, lễ Bẻ
Bánh, Cử hành Thánh Thể, Tưởng nhớ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của
Chúa, Hy lễ thánh, Phụng vụ thánh và Thần linh, Mầu nhiệm thánh, Bí tích thánh
nơi bàn thờ, Hiệp lễ.
276. Ðâu là vị trí của Bí tích Thánh Thể
trong Nhiệm cục cứu độ?
1333-1344
Trong Giao ước cũ, Bí tích Thánh Thể
đặc biệt được tượng trưng bằng bữa ăn Vượt qua, được Người Hi-pri cử hành hàng
năm với bánh không men, để ghi nhớ ngày ra đi vội vã và giải phóng khỏi đất Ai
Cập. Chúa Giêsu đã báo trước về Bí tích này trong giáo huấn của Người, và Người
đã thiết lập Bí tích này khi cử hành bữa tiệc ly với các Tông đồ, trong khung
cảnh bữa tiệc Vượt qua. Trung thành với lệnh truyền của Chúa: "Hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy" (1 Cr 11, 24), Hội thánh luôn cử hành Bí tích
Thánh Thể, nhất là vào ngày chúa nhật, ngày Phục sinh của Chúa Giêsu.
277. Bí tích Thánh Thể được cử hành thế
nào?
1345-1355
1408
Bí tích Thánh Thể được cử hành gồm
hai phần chính, hợp thành một hành vi phụng tự duy nhất: Phụng vụ Lời Chúa gồm
việc công bố và lắng nghe Lời Chúa, và Phụng vụ Thánh Thể gồm việc tiến dâng
bánh rượu, kinh nguyện thánh thể (hay anaphore) và hiệp lễ.
278. Ai là thừa tác viên của Bí tích Thánh
Thể?
1348
1411
Thừa tác viên Bí tích Thánh Thể là vị
tư tế (Giám mục hay linh mục) đã được truyền chức thành sự; vị này cử hành
trong cương vị (in Persona) Ðức Kitô - Thủ lãnh và nhân danh Hội thánh.
279. Các chất liệu chính yếu và cần thiết
của Bí tích Thánh Thể là gì?
1412
Các chất liệu đó là bánh mì và rượu
nho.
280. Tại sao nói Bí tích Thánh Thể là việc
tưởng niệm hy tế của Ðức Kitô?
1362-1367
Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm
theo nghĩa làm cho hiện diện và hiện tại
hoá hy tế thập giá mà Ðức Kitô đã dâng lên Chúa Cha, một lần thay cho tất
cả, vì nhân loại. Ðặc tính hy tế của Bí tích Thánh Thể được biểu lộ trong chính
những lời thiết lập: "Ðây là Mình Thầy, bị nộp vì anh em" và
"Chén này là Giao ước mới trong Máu Thầy, sẽ đổ ra vì anh em" (Lc
22,19-20). Hy tế thập giá và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất. Hiến vật và
người dâng là một, chỉ khác biệt về cách tiến dâng: cách đổ máu trên thập giá,
cách không đổ máu trong Bí tích Thánh Thể.
281. Hội thánh tham dự vào hy tế Thánh Thể
theo cách nào?
1368-1372
1414
Trong Bí tích Thánh Thể, hy tế của
Ðức Kitô cũng trở thành hy tế của các chi thể trong Thân Thể Người. Ðời sống
của các tín hữu, lời ca ngợi, hoạt động, cầu nguyện, lao động của họ được kết
hợp với Ðức Kitô. Vì là hy tế, Bí tích Thánh Thể cũng được dâng lên thay cho
tất cả các tín hữu, người còn sống cũng như kẻ đã qua đời, như của lễ đền tội
cho tất cả mọi người, để đón nhận được từ Thiên Chúa những ích lợi thiêng liêng
và trần thế. Hơn nữa, Hội thánh trên trời cũng hiện diện trong lễ dâng của Ðức
Kitô.
282. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích
Thánh Thể như thế nào?
1373-1375
1413
Ðức Giêsu Kitô hiện diện trong Bí
tích Thánh Thể một cách độc nhất vô nhị và không thể so sánh được. Thật vậy,
Người hiện diện cách đích thực, thực sự và theo bản thể: với Mình và Máu Người,
với linh hồn và thần tính của Người. Trong Bí tích Thánh Thể, Ðức Kitô trọn
vẹn, vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện theo cách Bí tích, nghĩa là
dưới hình bánh và hình rượu.
283. Biến đổi bản thể nghĩa là gì?
1376-1377
1413
Biến đổi bản thể nghĩa là sự biến đổi
trọn vẹn bản thể bánh thành bản thể Mình Thánh Ðức Kitô, và biến đổi trọn vẹn
bản thể rượu thành bản thể Máu Thánh Người. Sự biến đổi này được thực hiện
trong Kinh Nguyện Thánh Thể, nhờ tính hữu hiệu của lời Ðức Kitô và tác động của
Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, những đặc tính khả giác bên ngoài của bánh và rượu,
nghĩa là các "hình bánh rượu," vẫn không thay đổi.
284. Việc bẻ bánh có phân chia Ðức Kitô
không?
1377
Việc bẻ bánh không phân chia Ðức
Kitô. Người hiện diện trọn vẹn và toàn phần trong mỗi hình dạng Thánh Thể, và
trong mỗi phần nhỏ của cả hai hình dạng đó.
285. Sự hiện diện của Ðức Kitô trong Bí
tích Thánh Thể kéo dài bao lâu?
1377
Sự hiện diện của Ðức Kitô kéo dài bao
lâu hình bánh ruợu đã truyền phép còn tồn tại.
286. Phải tôn thờ Bí tích Thánh Thể cách
nào?
1378-1381
1418
Ðó là sự tôn thờ "latria",
nghĩa là sự tôn thờ chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa, dù trong Thánh lễ,
dù ngoài Thánh lễ. Hội thánh bảo quản bánh rượu đã truyền phép một cách cẩn
thận tối đa; Hội thánh mang Thánh Thể cho các bệnh nhân, cho những người không
có khả năng tham dự Thánh lễ. Hội thánh trưng Thánh Thể cho các tín hữu tôn thờ
cách long trọng; mang Thánh Thể đi rước kiệu và mời gọi mọi người thường xuyên
kính viếng và thờ lạy Bí tích cực thánh này, được gìn giữ trong Nhà tạm.
287. Tại sao Bí tích Thánh Thể là tiệc Vượt
qua?
1382-1384
1391-1396
Bí tích Thánh Thể là tiệc Vượt qua vì
khi làm cho cuộc Vượt qua của Người hiện diện một cách Bí tích, Ðức Kitô ban
cho chúng ta Mình và Máu Người làm của ăn thức uống. Người kết hợp chúng ta với
Người và với nhau trong hy tế của Người.
288. Bàn thờ có ý nghĩa gì?
1383
1410
Bàn thờ là biểu tượng của chính Ðức
Kitô, Ðấng đang hiện diện như của lễ hiến tế (bàn thờ - hy tế thập giá) và như
lương thực thần thiêng được ban tặng cho chúng ta (bàn thờ - bàn tiệc Thánh
Thể).
289. Hội thánh đòi buộc chúng ta phải tham
dự Thánh lễ khi nào?
1389
1417
Hội thánh đòi buộc các tín hữu phải
tham dự Thánh lễ vào các ngày Chúa nhật và các lễ buộc. Hội thánh cũng khuyên
chúng ta tham dự Thánh lễ vào các ngày khác nữa.
290. Khi nào chúng ta phải rước lễ?
1389
Hội thánh khuyên các tín hữu, nếu có
đủ điều kiện cần thiết, nên rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Hội thánh buộc
chúng ta rước lễ một năm ít là một lần trong mùa Phục sinh.
291. Phải có những điều kiện nào để rước
lễ?
1385-1389
Ðể rước lễ, chúng ta phải hoàn toàn
thuộc về Hội thánh Công giáo và sống trong tình trạng ân sủng, nghĩa là phải ý
thức mình không có tội trọng. Ai ý thức mình đã phạm một tội trọng, phải lãnh
nhận Bí tích Thống hối trước khi rước lễ. Cũng cần phải có sự tịnh tâm và cầu
nguyện, giữ sự chay tịnh do Hội thánh qui định và có những thái độ bên ngoài
xứng đáng (cử chỉ, cách ăn mặc) biểu lộ lòng tôn kính đối với Ðức Kitô.
292. Việc rước lễ đem lại những hiệu quả
gì?
1391-1397
1416
Việc rước lễ làm tăng triển sự hiệp
thông của chúng ta với Ðức Kitô và với Hội thánh Người, bảo toàn và canh tân
đời sống ân sủng đã nhận được khi lãnh Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức,
giúp tăng triển tình yêu đối với tha nhân. Việc rước lễ làm chúng ta nên mạnh
mẽ trong đức ái, xoá bỏ các tội nhẹ và gìn giữ chúng ta, trong tương lai, khỏi
các tội trọng.
293. Khi nào có thể trao ban Bí tích Thánh
Thể cho các người Kitô hữu không công giáo?
1398-1401
Các thừa tác viên công giáo chỉ được
phép trao ban Bí tích Thánh Thể cho những người thuộc các Giáo hội Ðông Phương,
dù không hiệp thông trọn vẹn với Hội thánh Công giáo, nếu như chính họ tự ý xin
và có đủ các điều kiện cần thiết. Còn đối với những người thuộc các cộng đoàn
giáo hội khác, các thừa tác viên công giáo được phép trao ban Bí tích Thánh Thể
cho họ, khi có lý do quan trọng, và do chính họ tự ý xin và có đủ các điều kiện
cần thiết, và họ cũng phải biểu lộ đức tin công giáo đối với Bí tích Thánh Thể.
294. Tại sao Thánh Thể là "bảo chứng
cho vinh quang mai sau"?
1402-1405
Vì Bí tích Thánh Thể đổ tràn trong
chúng ta tất cả mọi ân sủng và sự chúc lành của trời cao, nên Bí tích này củng
cố chúng ta nên mạnh mẽ trên đường lữ hành trần gian, và làm cho chúng ta thêm
lòng khao khát đời sống vĩnh cửu, khi đã liên kết chúng ta với Ðức Kitô, Ðấng
đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, với Hội thánh thiên quốc, với Ðức Trinh Nữ
Maria diễm phúc và với tất cả các thánh.
Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta bẻ cùng một tấm bánh là
phương dược trường sinh bất tử và của ăn đem lại sự sống muôn đời trong Ðức
Kitô" (Thánh Ignatio Antiokia).
Trong phần toát yếu giáo lý về bí tích
thánh thể của giáo hội Công giáo nêu trên, chúng tôi xin mạn phép lược trích
hai điển căn bản sau :
1.
Linh mục, giám mục trong cương vị Ki-to
278. Ai là thừa tác viên của Bí tích Thánh
Thể?
1348
1411
Thừa tác viên Bí tích Thánh Thể là vị
tư tế (Giám mục hay linh mục) đã được truyền chức thành sự; vị này cử hành
trong cương vị (in Persona) Ðức Kitô - Thủ lãnh và nhân danh Hội thánh.
Theo giáo
lý của Giáo hội Công giáo (chữ in
nghiêng) trên đây : nếu không có linh mục hay Giám mục là thừa tác viên
trong hàng giáo phẩm đã được truyền chức thành sự thì không ai có thể cử hành
trong cương vị Đức Kitô – thủ lãnh và nhân danh hội thánh. Nhưng đặc biệt thừa
tác viên đó lại ở trong cương vị Chúa Giê-su !
2.
Chúa Giê-su hiện diện cụ thể trong bánh và rượu
282. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích
Thánh Thể như thế nào?
1373-1375
1413
Ðức Giêsu Kitô hiện diện trong Bí
tích Thánh Thể một cách độc nhất vô nhị và không thể so sánh được. Thật vậy, Người hiện diện cách đích thực,
thực sự và theo bản thể : với Mình và Máu Người, với linh hồn và thần tính
của Người. Trong Bí tích Thánh Thể, Ðức Kitô trọn vẹn, vừa là Thiên Chúa vừa là
con người, hiện diện theo cách Bí tích, nghĩa là dưới hình bánh và hình rượu.
283. Biến đổi bản thể nghĩa là gì?
1376-1377
1413
Biến đổi bản thể nghĩa là sự biến đổi
trọn vẹn bản thể bánh thành bản thể Mình Thánh Ðức Kitô, và biến đổi trọn vẹn
bản thể rượu thành bản thể Máu Thánh Người. Sự biến đổi này được thực hiện trong Kinh Nguyện Thánh Thể, nhờ
tính hữu hiệu của lời Ðức Kitô và tác động của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên,
những đặc tính khả giác bên ngoài của bánh và rượu, nghĩa là các "hình
bánh rượu," vẫn không thay đổi.
Theo như giáo lý trên thì Chúa Giê-su
sẽ hiện diện cụ thể trong bánh và rượu bởi sự biến đổi trọn vẹn bản thể bánh và
rượu khi kinh nguyện thánh thể được
đọc lên, tất nhiên người đọc phải là các thừa tác viên. Như vậy, khi không có
linh mục hoặc giám mục là các thừa tác viên giáo dân sẽ không thể nhận được
“mình và máu Chúa Gie-su” qua bí tích thánh thể. Kết quả : không được hiệp
thông với Chúa Giê-su với hội thánh và v.v… như giáo lý Giáo hội dạy. (Xem lại
số 292, 294 ở phần A Giáo lý Công giáo về “bí tích thánh thể”).
Trên đây, phần A là giáo lý của giáo
hội Công giáo dạy, chúng tôi đã tóm tắt trong tiểu mục một và hai nhỏ. Phần B
dưới đây chúng tôi sẽ trình bày về bí tích thánh thể bởi chính Chúa dạy trong
kinh thánh. Người đọc có thể nhận định sự tương đồng, tương dị qua hai cách một
của Giáo hội Công giáo và của Lời Chúa dạy để sau cùng là sự chọn lựa sao cho
tốt nhất đúng ý Chúa dạy và làm theo (Gioan 4:23-24).
B.
“Bí tích Thánh thể”
theo lời Chúa dạy trong Kinh thánh
Bí
tích thánh thể bởi Thiên-Chúa thiết lập qua Đức Chúa Giê-su, được trình bày
trong kinh thánh là một sự kiện không phải mới có cách đây (2014) khoảng hơn
hai ngàn năm; mà trái lại, khởi đầu cho sự kiện đó là hình thức “ẩm thực” trong
Eden. Một hình thức “ăn uống” thanh sạch dành cho người thanh sạch (thánh) làm
hình bóng để tượng trưng cho những người sẽ được cứu chuộc. Qua hình thức ăn uống
này, Thiên Chúa sẽ dẫn dắt người tin vào một hành trình “ăn uống” trải dài
xuyên suốt từ khi có loài người cho đến khi kết thúc để bước sang hình thức mới
: “ăn uống” đồ ăn có giá trị đời đời là chính thịt và huyết Chúa Giê-su. Điểm đến
sau cùng của hành trình “ẩm thực” là qua
công trình Chúa Giê-su nhập thể cứu chuộc và đó là “bí tích thánh thể” được thiết
lập cho loài người đang trên đường lữ hành về nhà Chúa (Rm 8:20-24).
Đây
là một đề tài quan trọng, đồng thời lại phức tạp khó khăn; tất nhiên người đọc
phải dụng tâm tư, nói cách khác phải có tấm lòng trong sáng như trẻ thơ để Thần
Thiên Chúa hướng dẫn hầu thấu hiểu mà không hoàn toàn bởi khả năng riêng. Sau
đây chúng ta sẽ thứ tự tìm hiểu trong toàn bộ kinh thánh để nhận biết về cách
thức Thiên Chúa thiết lập “bí tích” này qua nội dung ngắn gọn Chúa Giê-su công
bố trong trích đoạn sau :
Lu
22:19 “19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ
ra, trao cho các ông và nói : “Đây là mình Thầy, hiến
tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. 20
Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người
cũng làm như vậy và nói : “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ
ra vì anh em.(đọc thêm trong I Co 11:23-27)
Nguyên
nhân dẫn đến việc Chúa Giê-su thiết lập “bí tích thánh thể” chính là sự bất
tuân của cả loài người khởi đầu là Adam. Chính vậy, nên ngay từ trong chương đầu
tiên của sách Sáng thế Thiên Chúa đã sơ khởi nói về đồ ăn dành cho loài người
đang ở trong tình trạng vô tội là những thứ đồ ăn nào; cũng thế, cùng với chủ đề
đồ ăn thức uống Thiên-Chúa quy định phân loại dành cho dân riêng là dân làm biểu
tượng chỉ về dân thánh sau khi Chúa Giê-su hoàn thành công trình cứu chuộc. Một
lần nữa xin được lập lại rằng : hình thức ăn uống này chính là một hình thức được
dùng làm hình bóng và nó trải dài xuyên suốt từ khi sáng thế cho đến khi Chúa
Gie-su nhập thể cứu chuộc. Hình thức hình bóng đó được thực hành trong một dân
qua nhiều thời kỳ để dẫn đến hình thức sau cùng mà kinh thánh nhắm đến là ăn uống
thịt và huyết Chúa Giê-su. Chúng ta sẽ phân tích hình thức ăn uống đó qua các
thời kỳ sau đây :
1.
Thời kỳ trong Địa đàng (Eden)
Đây
là thời kỳ thánh vì mọi loài thọ tạo được Thiên-Chúa sáng tạo hiện đang ở trong
tình trạng công chính theo bản tánh Thiên-Chúa.
Chúng
ta thừa biết, nếu như Adam và cả loài người sau Adam đều vâng theo lời dạy của
Thiên-Chúa trong cách ăn nết ở thì Thiên-Chúa luôn cư ngụ với loài người và như
vậy chẳng hề có kinh thánh hay bất kỳ “bí tích” nào được thiết lập cả !
Chính
vì sự bất trung của loài người và Thiên-Chúa vẫn phải tiếp tục hoàn thành ý định
thánh từ đời đời (Tito 1:2) nên phải có kinh thánh là lời dạy của Thiên-Chúa và
như vậy mặc nhiên nội dung kinh thánh phải chứa đựng tất cả các giáo huấn tinh
tuyền đầy đủ cần thiết cho công trình đó.
Xét
về phương diện “bí tích thánh thể”, có thể nói đây là tột đỉnh của công trình cứu độ nhân loại, và nhằm để hình bóng cho
“bí tích” này, khởi đầu kinh thánh trình bày tình trạng thánh của Adam qua việc
ăn uống là các thực phẩm sau đây : “29 Thiên Chúa phán : “Đây Ta ban cho các ngươi mọi
thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất,
và mọi thứ cây có trái mang hạt giống,
để làm lương thực cho các ngươi” (St 1:29).
Chúng
ta lưu ý thực phẩm quy định trên là thứ thực phẩm dành cho Adam trong tình trạng
thánh (vô tội). Cũng lưu ý thêm về một hình thức thực phẩm được Chúa quy định khác
nữa, nhưng lại dành cho loài vật trong thời kỳ Adam chưa vi phạm như sau : “30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật
bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực” (St 1:30).
2.
Thời kỳ ngoài địa đàng (Ngoài Eden)
Sau
khi Adam bỏ cách sống thánh mà Thiên-Chúa truyền dạy; đồng thời thực phẩm cũng
được Thiên Chúa chỉ định thêm vào như sau : “
ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng” (St 3:18).
Thực
phẩm cỏ xanh dành cho loài vật (St 1:30) nay Chúa chỉ định thêm vào cho loài
người sau khi Adam vi phạm. Việc quy định này là hình ảnh nói đến tình trạng
chung của con người khi không có Chúa trong tâm hồn (Da 4:25-29).
Ngoài
ra, chúng ta nhận thấy điều gì ở đây, không thể hiểu theo nghĩa đen của bản văn
ngay khi chúng ta đọc; mà việc Thiên Chúa quy định loại thực phẩm này khác cho
loài người, nó chỉ mang tính chất biểu tượng.
Biểu tượng
!
Vì
một khi loài người bất trung từ bỏ giáo huấn, mệnh lệnh Chúa; tự chọn cho mình
cách sống hoàn toàn không cần đến Thiên-Chúa, thì đối với họ, việc quy định này
khác sẽ chẳng có giá trị gì ! Vì thế những quy định về thực phẩm dành cho loài
người chính là một trong những, vừa là biểu tượng để chỉ về “bí tích thánh thể”
sẽ được thiết lập trong tương lai, vừa là giáo huấn dành cho chúng ta những kẻ
được cứu nhận biết về tình trạng Thiên Chúa làm cho người tin nên thánh theo
phương diện ẩm thực làm hình bóng.
Trở
lại vấn đề ẩm thực Chúa quy định cho loài người, loài người ở đây phải hiểu là
những người vì liên đới với Adam đã ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của Sa-tan qua
việc truyền sinh. Thực phẩm cỏ xanh là biểu tượng chung cho tình trạng loài người
đã từ bỏ vị trí cao trọng là loài được sáng tạo giống như hình ảnh Thiên Chúa.
Vì nếu không có sự cứu chuộc để loài người ra khỏi tình trạng này, loài người sẽ
chung số phận như loài vật vì tất cả đều phải chết (St 3:19. 6:17). Xin đọc
thêm một vài trích đoạn khác nói về ý nghĩa của cỏ xanh làm “thực phẩm” cho
loài người, khi đã bỏ cách sống Chúa dạy sau :
Esai
37:27
27 Cư
dân của chúng đành bó tay, và thẹn thùng khiếp đảm khác nào cỏ đồng nội, tựa
đám cỏ xanh tươi, đám cỏ mọc mái nhà, hoặc như cây lúa
héo chưa kịp vươn lên cao. ( hoặc đọc thêm II Vua 19:26).
Danien
4:25- 29 25 Tất cả những
điều trên đây đã xảy ra cho vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đúng như vậy. 26 Mười hai tháng trôi qua, nhân lúc đi dạo trên
sân thượng hoàng cung ở Ba-by-lon, 27 nhà vua
lên tiếng nói : “Đây chẳng phải là Ba-by-lon vĩ đại, thành ta đã dùng quyền lực
lớn lao mà xây dựng làm hoàng cung, để ta được vinh quang rạng rỡ đó sao ?” 28 Vua còn đang nói thì có tiếng từ trời vọng xuống
: “Nghe đây, hỡi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo : Vương quyền ngươi nắm giữ đã vuột khỏi
tay ngươi, 29 ngươi sẽ bị đuổi, không được
chung sống với người ta, nhưng phải sống chung với thú vật ngoài đồng, phải ăn cỏ như bò. Ngươi phải chịu
như thế suốt bảy thời ròng rã, cho tới lúc ngươi chịu nhận ra rằng Đấng Tối Cao
cai trị vương quốc loài người, và Người trao cho kẻ nào Người muốn”. Như
vậy thực phẩm : cỏ xanh là biểu tượng chỉ về người bỏ Chúa.
Ngoài
ra, vấn đề khác và quan trọng đó là về ý nghĩa của “máu” : “1 Thiên Chúa ban phúc lành cho ông
Nô-ê và các con ông, và Người phán với họ : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều,
cho đầy mặt đất. 2 Mọi dã thú, mọi chim trời, mọi
giống vật bò dưới đất, và mọi cá biển sẽ phải kinh hãi khiếp sợ các ngươi :
chúng được trao vào tay các ngươi. 3 Mọi loài di
động và có sự sống sẽ là lương thực cho các ngươi ; Ta ban cho các ngươi tất cả
những thứ đó, cũng như đã ban cỏ xanh tươi. 4 Tuy
nhiên các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó, tức là máu” (St
9:1-4). Như vậy máu là biểu tượng chỉ
về mạng sống. Và mạng phải đền mạng nếu là kẻ giết người : “5 Nhưng Ta
sẽ đòi mỗi con vật phải đền nợ máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi ;
Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu, Ta
sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình” (St 9:5).
Cũng
vẫn đang trong vấn đề ẩm thực nhưng dành cho dân Chúa, trong trích đoạn St 9:3
trên đây, ngoài cỏ xanh thì các thịt động vật khác cũng đã được chỉ định trong
khẩu phần ăn nhưng tuyệt đối không được dùng huyết của chúng và Thiên-Chúa xem “huyết”
là một biểu tượng để chỉ về mạng sống.
Huyết
làm biểu tượng chỉ về mạng sống và Chúa cấm dùng nó, chúng ta sẽ tìm hiểu ở các
phần tiếp theo; nhưng bây giờ, chúng ta sẽ tóm tắt về các thực phẩm được quy định
cho loài người đang trong tình trạng liên đới với Adam và hiện đang ở ngoài địa
đàng :
ü Cỏ
mang hạt giống
trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái
mang hạt giống (St 1:29).
ü Cỏ xanh
(St 3:19).
ü Thịt
các động vật
nhưng không được dùng máu của chúng (St 9:1-4).
ü Ngoài vấn đề ẩm thực xin ghi nhớ thêm một vấn
đề khác nữa; đó là máu, và máu tượng
trưng cho mạng sống (St 9:5).
Như
vậy, loài người nói chung, bắt đầu từ sau khi Adam vi phạm, - kinh thánh đã ít
nhiều phân biệt : dân được chọn và không được chọn. Dường như và rõ ràng : dân
được chọn (St 9:3) buộc phải kiêng huyết; còn dân ngoại tất cả đều được ăn thịt
các loại động vật mà không có chỉ định phải kiêng trừ gì cả (Đệ nhị, Phục
14:21). Đặc biệt khi xuất hiện tuyển dân, vấn đề ẩm thực lại càng được chỉ định
đầy đủ hơn. Thịt các động vật có chỉ định rõ từng loài, loài nào ăn được và
loài nào không được ăn (Levi 11) ! Các chỉ định kiêng kỵ trong ăn uống đối với
dân được chọn như vậy cốt để làm hình bóng biểu tượng vừa chỉ về dân thánh
trong tương lai sau khi Chúa Giê-su hoàn tất công trình cứu chuộc (Ga 3:29) vừa
giúp phân biệt giữa dân thánh và dân ngoại.
3.
Thời kỳ Chúa Giê-su cứu chuộc (Eden thiêng
liêng)
Những quy định về thực phẩm một cách tỉ mỉ trong thời
cựu ước lại được tinh giản tối đa, có thể nói như vậy, sau khi Chúa Giê-su hoàn
thành công trình cứu chuộc, và đây là một trong những gì mà Chúa Giê-su đã làm
để kiện toàn lề luật (Mat 5:17-19). Xin
đọc trong Công vụ tông đồ sau đây : “19…. kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật
không cắt tiết và kiêng ăn tiết” (Cv 15:19-20). Tại sao lại tinh giản chỉ
còn bốn điều cần tránh như vậy ?
Câu trả lời nằm trong Mac-co chương bảy câu mười
chín sau đây : “14
Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo : “Xin mọi người nghe
tôi nói đây, và hiểu cho rõ : 15 Không có
cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được
; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. 16 Ai có tai nghe thì nghe !” 17
Khi Đức Giê-su đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Người về dụ
ngôn ấy. 18 Người nói với các ông : “Cả anh
em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao ? Anh em không hiểu sao ? Bất cứ cái gì
từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, 19 bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng
người ta, rồi bị thải ra ngoài ? “Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều
thanh sạch” (Mac 7:14-19. Bản dịch : Giáo hội Công giáo. Giờ kinh phụng vụ)
Khi Chúa Giê-su chưa đến để cứu chuộc thì tuyển dân
vẫn phải kiêng ăn một số động vật và tuyệt đối không được ăn huyết; những cấm kỵ
đó phải tuân giữ nhằm để phân biệt giữa dân không tin Chúa và dân tin Chúa (Đệ
nhị, Phục 14:21). Nhưng khi Chúa Giê-su đã thực hiện xong sự cứu chuộc thì hình thức làm biểu tượng để phân biệt
đó chấm dứt như Ngài đã tuyên bố trong câu 19 trong chương bẩy sách Mac-cô :“Như
vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”.
Thế nhưng, trong Công vụ nêu trên, người tin vẫn còn
phải kiêng bốn điều : “thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng,
tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết và kiêng ăn tiết”(Cv
15:19-20). Tuy vậy, khi phân tích bốn điều trên, chúng ta nhận thấy nội
dung chỉ còn có hai điều : huyết và chỉ tôn thờ một Chúa mà thôi.
Điều thứ nhất : huyết và thịt thú vật chưa cắt tiết, điều thứ hai : đồ cúng cho
ngẫu tượng và gian dâm; vì ăn đồ cúng tức là thông đồng với việc thờ thần tượng,
và gian dâm là vừa thờ Chúa vừa theo giáo huấn không phù hợp với chân lý Chúa dạy.
Nhưng điều chúng ta cần lưu ý ở đây là ngoài thịt thú vật không cắt tiết thì lời
Chúa trong Công vụ chương 15 câu 19 và Mác-cô chương bảy câu 19 không còn nhắc
đến thịt các con vật ô-uế nào khác cần phải kiêng kỵ nữa !
Thế nhưng huyết tại sao vẫn còn phải kiêng ??? Huyết biểu tượng cho mạng sống, chúng ta đã vẫn
biết như vậy ! (Xem thêm trong Thánh kinh
từ điển mới / Vietbible.)
Một vấn đề khác cực kỳ quan trọng liên hệ đến huyết
các con sinh tế trong Xuất hành chương 12 xin được lập lại sau đây : “1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập : 2 “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu
các tháng, tháng thứ nhất trong năm. 3 Hãy nói
với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en : Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con
chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. 4 Nếu
nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình
nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu
mà chọn con chiên. 5 Con chiên đó phải toàn vẹn,
phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. 6 Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi
toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, 7 lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt
chiên. 8 Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng
lên, ăn với bánh không men và rau đắng. 9 Các
ngươi không được ăn sống hay luộc, nhưng chỉ được ăn nướng, với cả đầu, chân và
lòng. 10 Không được để lại gì đến sáng ; cái
gì còn lại đến sáng, phải đốt đi. 11 Các
ngươi phải ăn thế này : lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải
ăn vội vã : đó là lễ Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA. 12 Đêm
ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ
loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập : vì Ta là ĐỨC
CHÚA. 13 Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là
dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ
không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập. 14
Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng ĐỨC
CHÚA. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này : đó là luật quy định cho
đến muôn đời”(Xh 12:1-14).
Một trích đoạn
khác nữa trong Levi ký sau đây về con sinh, huyết và bàn thờ : “27 Nếu một thường dân vô ý phạm tội,
làm một trong những điều mà mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA cấm làm, khiến nó mắc lỗi, 28 nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì
vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê làm lễ tiến, một dê cái toàn vẹn. 29 Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế
lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 30 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn
thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 31 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta
tách mỡ ra khỏi hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ
thành hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho
người ấy, và người ấy sẽ được tha.
32 Nếu người ấy đem dâng tiến một con chiên làm lễ tạ tội, thì phải đem đến một con chiên cái toàn vẹn. 33 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế làm lễ tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 34 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 35 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ của con chiên dâng làm hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, vì tội người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha” (Le 4:27-35).
32 Nếu người ấy đem dâng tiến một con chiên làm lễ tạ tội, thì phải đem đến một con chiên cái toàn vẹn. 33 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế làm lễ tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 34 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 35 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ của con chiên dâng làm hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, vì tội người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha” (Le 4:27-35).
Huyết và con sinh tế. Con sinh tế biểu tượng chỉ về
Chúa Giê-su (I Phê-rô, Phi-e-rơ 1:19). Máu con sinh tế biểu tượng chỉ về mạng sống
của Chúa Giê-su, máu Ngài sẽ phải đổ ra để chuộc tội (Colose 1:20. Rm 5:9. I
Gioan 5:6). Bàn thờ bằng vật chất vô hồn ngày xưa biểu tượng chỉ về người vi phạm
và máu con sinh tế tượng trưng cho sự cứu chuộc sẽ được bôi lên góc cong (Tv
89:17) của bàn thờ biểu tượng chỉ về người vi phạm. Chúng ta rất lưu ý về điểm
này : “bàn thờ” hôm nay chính là con người toàn diện sống động; một khi, ai đó
nhận biết về Chúa Giê-su và đã ăn năn các vi phạm thì chính máu của Ngài sẽ tẩy
rửa hồn xác là con người toàn diện sống động giống như xưa máu con sinh tế bôi
lên góc cong của bàn thờ bằng gỗ đá vô hồn dùng làm biểu tượng (Tv 89:17).
- Ý nghĩa của biểu tượng ẩm thực không hề thay đổi
Tới đây, nếu không nói cho rõ những diễn tiến của vấn
đề ăn uống bắt đầu từ trong Eden cho đến khi Chúa Giê-su công bố sự chấm dứt
(Mac 7:1-19. I Ti 4:1-5) thì vấn đề ăn uống mà tuyển dân phải kiêng chỉ vì lý
do ô-uế này khác sẽ là thừa và không mang ý nghĩa gì cả, thậm chí còn là đề tài
tố cáo về tính chất bất nhất và còn không luôn được xem là chân lý trong kinh
thánh !
Khi
Chúa Giê-su công bố chấm dứt việc ăn uống theo nghĩa đen là chỉ chấm dứt hình
thức ăn uống làm biểu tượng còn ý nghĩa mà vấn đề ăn uống chỉ ra không hề chấm
dứt.
Trong cả hai thời kỳ; một là thời chờ đợi sự cứu chuộc
thì vấn đề ăn uống có chỉ định được tôn trọng bởi một dân cụ thể Is-ra-el, dân này
là biểu tượng để chỉ về dân thánh trong thời kỳ sau cứu chuộc; hai là, sau khi
cứu chuộc thì dân riêng (Is-ra-el) làm biểu tượng không còn thuần túy là dân
riêng nữa mà họ cũng như các dân khác vẫn cần đến sự cứu chuộc. Như vậy, hiện
nay cả dân riêng Is-ra-el và bất luận những ai nghe tin mừng và tin vào Chúa
Giê-su thì tất cả sẽ được dùng một loại thực phẩm mới, một hình thức thức ăn và
uống mới mà ý nghĩa của hình thức cũ làm biểu tượng hình bóng.
Hình hình thức ăn uống trong cựu ước; ăn là ăn thịt
các loài vật được chính Chúa chỉ định, nhưng dẫu có chỉ định đi chăng nữa vẫn
là các thứ thịt không thể nuôi sống con người đời đời được. Nay cũng hình thức
ăn thịt lại cũng được chính Chúa chỉ định nhưng để chuyển sang hình thức mới,
đó là : “ăn thịt và uống huyết” Chúa Giê-su, là thực phẩm đem lại sự sống đời đời
cho những ai tin và làm theo giáo huấn bởi Chúa Giê-su. Như vậy, ý nghĩa của việc
kiêng kỵ trong cựu ước là muốn nhắm đến cùng đích mà ý nghĩa của nó chỉ ra là
“thịt và huyết Chúa Giê-su. Chúng ta còn nhớ khi tuyển dân rong ruổi trong sa mạc
để về đất hứa Chúa đã ban man-na trong suốt cuộc hành trình đó (Xh 16:35);
trong tin mừng Gioan chương sáu có ghi nhận về bánh bởi trời như sau : “31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc,
như có lời chép : Người đã cho họ ăn
bánh bởi trời.” 32 Đức Giê-su đáp : “Thật,
tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu,
mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, 33 vì bánh
Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.”
Bánh man-na trong sa mạc
mà tuyển dân đã được ban cho; để sống trong suốt hành trình về đất hứa đã được
kinh thánh hình bóng xa gần nói về bánh từ trời sẽ ban xuống cho nhân loại là
chính Chúa Giê-su. Xin đọc tiếp sau đây : “34 Họ liền nói : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” 35 Đức Giê-su bảo họ :“Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai
tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
Như vậy, hình thức ăn uống cũ : ăn thịt thú vật có
chỉ định và không được dùng huyết chỉ có giá trị tạm thời và được dùng làm biểu
tượng, – nó cần phải được kiện toàn, nhằm
để chuyển sang một hình thức ăn uống mới có giá trị đời đời là ăn cả thịt và uống
cả huyết Chúa Giê-su.
Nhưng ăn và uống huyết Chúa Giê-su bằng cách nào ?
C.
Cách thức ban thịt
và máu Chúa Giê-su
Thịt
các con vật được Thiên-Chúa chỉ định hoặc các con sinh tế là những thú vật được
Chúa quy định là thanh sạch làm biểu tượng để chỉ về thịt thánh sạch của Chúa
Giê-su. Huyết của chúng không được ăn uống mà phải đổ đi (Le 4:25) vì là biểu
tượng chỉ về huyết cứu chuộc mà Chúa Giê-su sẽ đổ ra.
Khi
Chúa Giê-su còn hiện diện trên đất và hôm trước ngày lễ vượt qua Chúa Giê-su đã
truyền cho các tông đồ mệnh lệnh sau :
Ăn tiệc Vượt Qua
14 Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn cùng với các Tông Đồ. 15 Người nói với các ông : “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.”
17 Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói : “Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18 Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến.”
Đức Giê-su lập phép Thánh Thể
19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói : “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” 20 Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói : “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lu 22:14-20).
14 Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn cùng với các Tông Đồ. 15 Người nói với các ông : “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.”
17 Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói : “Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18 Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến.”
Đức Giê-su lập phép Thánh Thể
19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói : “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” 20 Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói : “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lu 22:14-20).
Hiện
nay, sau hơn hai ngàn năm Chúa Giê-su không còn hiện diện trên đất nữa vậy làm
sao chúng ta nhận được huyết và thịt Chúa Giê-su theo mệnh lệnh : “Đây
là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến
Thầy.”
Đã
có các hình thức phải được kiện toàn đúng với thánh chỉ đời đời của Thiên Chúa
(Mt 5:17-19); xin được nhấn mạnh : sự kiện
toàn để đúng với thánh chỉ đã được ấn định từ đời đời mà tuyệt đối không phải
thay đổi theo thời gian hoặc cho hợp với thời đại. Các hình thức phải được
kiện toàn sau : chức vụ tế lễ, thầy tế lễ thượng phẩm, hoặc con vật làm sinh tế
cũng như đền tạm và ý nghĩa của các vật liệu tượng trưng.
Xin
được tóm tắt ý nghĩa về hình bóng Đền tạm, hàng tư tế, thượng tế xưa đảm nhận qua
bảng tóm sau :
Đền tạm thời cựu ước
|
Đền tạm thời tân ước
|
Phần
thứ nhất gọi là nơi thánh.
Trong nơi thánh này có các vật dụng
dùng vào nghi thức thờ phượng :
·
Chân
đèn
·
Bàn
·
Bánh
tiến
Hằng ngày các thầy tế lễ vào làm công
việc của họ : Chuẩn bị dầu đèn (Xh 27:21. Mt 5:15. Gioan 1:7. 5:35). Hằng tuần
thay bánh (Le 24:5) trần thiết. Của lễ
thiêu hằng ngày (Xh 29:38-46). Các thầy tế lễ này, được chỉ định bởi Thiên
Chúa qua Moi-se, nơi một chi phái để làm công tác nói chung là thờ phượng (Le
vi). Nhưng họ không có bất cứ lời thề nào
bảo đảm về tính thời gian cho chức vụ mà họ được chỉ định bởi vì bản chất
hay chết (Dt, He 7:11, 23).
|
Phần thứ nhất bây giờ
là hội thánh đang trong hành trình vào trời mới đất mới
Chân đèn
: biểu tượng về hội thánh (Kh 1:20). Bàn
: các tín hữu. Bánh trần thiết (bánh
tiến) : của lễ dâng lên Chúa (xem trong
Vietbible).
Công
việc của các thầy tư tế xưa : biểu tượng chỉ về tín hữu hôm nay sau khi được
công chính hóa (I Phe, Phi 2:4,9). Việc chuẩn bị dầu đèn chính là việc chuẩn
bị đời sống để trở nên của lễ dâng Chúa mỗi ngày (I Co 6:19-20). Chức tư tế
này là thuộc tính của mọi người và đó là thánh chỉ của Thiên-Chúa từ thuở đời
đời (s/s với thời kỳ trong Eden và thời kỳ trời mới đất mới).
Ngày nay, các tín hữu chỉ là các tư
tế và cũng chỉ được kêu gọi vào trong chức vụ phổ quát là thuộc tánh mà không
phải được kêu gọi để trở nên thượng tế là chức vụ chỉ dành cho một mình Chúa
Giê-su phát xuất bởi lời thề của Thiên-Chúa.
|
Phần thứ hai gọi là
nơi cực thánh.
Trong nơi cực thánh này có các vật dụng
dùng trong nghi thức thờ phượng như sau :
·
Lư
hương bằng vàng.
·
Hòm
giao ước toàn bọc bằng vàng.
Trong hòm giao ước có các vật dụng sau
:
Bình bằng vàng đựng đầy ma-na –
cây gậy trổ hoa của A-ha-ron – và bảng giao ước.
Nắp của hòm giao ước được gọi là “nắp thi ân” hay là “nơi chuộc tội” đây là trọng điểm của
nghi lễ vào ngày đại lễ chuộc tội hằng năm. Tại đây huyết các con thú làm
sinh tế được thầy tế lễ thượng phẩm rảy ra làm lễ chuộc tội (Le 16:14-17).
Hai Che-ru-bin vinh hiển, bóng nó che phủ nơi chuộc tội chỉ về sự hiện diện
vô hình của Thiên – Chúa, Đấng được cho là đang ngự giữa các Che-ru-bin vinh
hiển (I Sa 4:4. Xh 25:17-22).
Thầy cả thượng phẩm loài người được lập
lên, họ phải được chỉ định như A-ha-ron xưa (He, Dt 5:4-6).
|
Thiên
Chúa Ngự : Hội thánh
Lư hương bằng vàng với hương thơm
dâng lên Thiên-Chúa tượng trưng cho lời cầu nguyện của
dân thánh được dâng lên Chúa qua trung gian Chúa Giê-su (Kh 8:3). Máu các con
sinh rảy ra làm lễ chuộc tội ngay “nắp thi ân” là hình bóng máu chiên vẹn
toàn vô tỳ tích (Dt, He 4:14-16. I Phe, Phi 1:19) Chúa Giê-su. Ngài Ngự bên hữu
Chúa Cha tức là Ngài vào nơi cực thánh xưa giống như thầy thượng phẩm loài
người đã làm hình bóng.
Hòm
giao ước (hòm bảng chứng) tượng trưng cho sự hiện diện Chúa trời, trong
hòm có : bình bằng vàng là biểu tượng
chỉ về Chúa Giê-su và ma-na đựng
trong đó biểu tượng chỉ về thịt và máu Chúa Giê-su. Cây gậy trổ hoa của A-ha-ron : biểu tượng chỉ về lời hứa của Chúa
Cha về chức thượng tế chỉ dành cho Chúa Gie-su. Bảng giao ước luật pháp của Thiên-Chúa được ban cho loài người
qua Chúa Giê-su.
Sự
dâng mình để cứu chuộc bởi huyết vô tội và chỉ dâng một lần là đủ (He, Dt
7:27. 9:12) Ngài trở nên Đấng trung bảo cho loài người là các tư tế phổ quát
trông cậy đến gần Ngài hầu được chuyển cầu, và thương xót.
Chúa
Giê-su đảm nhận chức vụ thượng tế bởi lời thề của Chúa Cha dành riêng cho Ngài
bởi vì Ngài vô tội và hằng sống; khi đã giữ chức vụ đó thì không hề thay đổi
nữa (Dt, He 7:24). Hình bóng vua Salem xưa, Men-ki-xe-đê được dùng để chỉ về
Chúa Giê-su (Dt, He 7:1-3) mà thôi !!!
|
Khi Chúa Giê-su hoàn thành công cuộc
cứu chuộc qua việc hiến tế chính mạng sống mình, Ngài đã kiện toàn một số các hình
thức mà lề luật Moi-se đòi buộc nhất định, bằng việc kết thúc kết thúc các nghi
thức làm hình bóng như các hy tế bằng các con sinh : chiên, dê, bò v.v… vì của máu
chúng chẳng thể tha tội cho ai được và chấm dứt các hình thức khác như các tư tế
chỉ được chọn trong dòng Le-vi; đồng thời, Ngài sẽ nắm giữ lại chức vụ thượng tế
đời đời theo phẩm trật Men-ki-xê-đê là phẩm trật đời đời. Một
phẩm trật mà không ai có thể đảm nhận cách trọn vẹn vì phải chết; vị trí này chỉ
tạm thời bị gián đoạn trong thời kỳ loài người chờ đợi sự cứu chuộc; do đó khi
đảm nhận trở lại Ngài sẽ không nhường cho bất kỳ ai vì Ngài : luôn luôn sống và
đã hoàn tất việc cứu chuộc để trở về lại với vị trí ban đầu mà Chúa Cha ấn định
nơi Ngài. Xin
đọc lời Chúa sau : “20 Hơn nữa, điều ấy đã xảy ra không phải
là không có lời thề. Một đàng, các tư tế Lê-vi đã trở nên tư tế mà không có lời
thề ; 21 còn Đức Giê-su khi trở nên tư tế, thì
lại có lời thề của Đấng nói với Người : Đức Chúa đã thề ước, Người sẽ chẳng rút
lời, rằng : Muôn thuở, Con là Thượng Tế.
22 Do đó, Đức Giê-su đã trở nên Đấng bảo đảm
cho một giao ước tốt đẹp hơn. 23 Lại nữa,
trong dòng tộc Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết,
không thể giữ mãi chức vụ đó. 24 Còn Đức
Giê-su, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại
mãi mãi. 25
Do đó, Người có thể
đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật
vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.
Vị Thượng Tế thập toàn
26 Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến : một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. 27 Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác : mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân ; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.
Vị Thượng Tế thập toàn
26 Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến : một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. 27 Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác : mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân ; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.
·
Tư
tế là thuộc tánh của mỗi ngôi vị
Như
vậy hết thảy mọi người tin Chúa hôm nay đều là các tư tế nhưng không một ai được nắm giữ chức vụ như Chúa Gie-su là thượng tế mà chỉ là các tư tế phổ quát bởi
đó là thuộc tánh của mỗi ngôi vị; và vì lời hứa về chức vụ thượng tế của
Thiên-Chúa Cha chỉ dành riêng cho Chúa Giê-su mà thôi. Xin đọc lời Chúa sau :
I
Phi, Phê-rô 2:5 5
Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên
ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng
những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô.
I
Phi, Phê-rô 2:9 9 Còn anh
em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh,
dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi
anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
·
Chỉ mình Chúa Giê-su là thượng tế
Đền tạm thời cựu ước, trong nơi cực
thánh thầy thượng tế được vào mỗi năm để dâng lễ chuộc tội cho chính ông và cho
cả dân, của lễ chỉ là các con sinh tế và chỉ một mình ông ta được vào, còn các
tư tế khác không được phép vào nơi rất thánh đó.
Hình ảnh đó là biểu tượng chỉ về Chúa
Giê-su hiện đang là thượng tế, Ngài đang ở trong nơi rất thánh để chuyển cầu
thay cho chúng ta là các tư tế phổ quát. Của lễ chính là mạng sống của Ngài chỉ
một lần dâng là có giá trị tha tội đời đời cho hết thảy mọi người mọi thời đại
khi bất luận ai kêu cầu danh Ngài (Dt, He 4:14-16).
Như vậy, đối với Chúa Giê-su và chỉ
một mình Ngài qua thánh chức thượng tế đời đời bởi Chúa Cha ấn định, Chúa
Giê-su mặc nhiên trở nên vị trung bảo giữa Thiên-Chúa và loài người. Còn riêng
đối với chức vụ tư tế chỉ là chức vụ, – một chức vụ thuộc tính của loài người –
đã được Thiên Chúa phục hồi qua giá
chuộc Chúa Giê-su. Hãy liên tưởng đến thời kỳ trong Eden : Chúa Giê-su vẫn là
thượng tế từ đời đời, là trung gian giữa Thiên-Chúa và loài người là các tư tế
phổ quát. Chỉ vì loài người bỏ cách sống Chúa dạy và hậu quả sau cùng (Rm
6:20-21) là chết. Sự chết làm thay đổi kế hoạch của Thiên-Chúa (Tito 1:2) cho
nên cần phải có sự thay đổi để loài người quay trở lại tình trạng sống tức là
đi trong kế hoạch đã được trù liệu bởi Chúa với chức vụ tư tế vẫn luôn là thuộc
tính của họ. Để được như vậy Thiên-Chúa phải chuẩn bị cho sự cứu chuộc, tức là
làm cho loài người trở về với tình trạng tư tế thánh ban đầu sáng tạo, cho nên trong
lịch sử loài người cùng với thời gian Thiên-Chúa đã phải chỉ ra các hình thức
cụ thể như : Tư tế, Thượng tế là những con người để hình bóng chỉ về những gì
Thiên-Chúa đã trù liệu. Nay khi sự cứu chuộc đã hoàn tất Thiên-Chúa chấm dứt
vai trò các Thượng tế là con người
làm hình bóng chỉ về Chúa Giê-su. Thế
nên, hôm nay không một ai được hoặc cho phép đặt mình vào trong “cương vị” Chúa
Giê-su để dâng lễ như Chúa Giê-su đã dâng hy lễ chuộc tội, mà các thầy thượng
phẩm loài người đã được chỉ định để làm hình bóng !
·
Làm sao để nhận lãnh thịt và huyết
Chúa Giê-su ?
Vậy làm sao để tín hữu có thể nhận
được thịt và máu Chúa Giê-su. Chìa khóa là ở câu 57 trong trích đoạn sau : “47 Thật,
tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. 48
Tôi là bánh trường sinh. 49 Tổ tiên
các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. 50 Còn
bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. 51
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống
muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được
sống.” 52 Người Do-thái liền tranh luận sôi
nổi với nhau. Họ nói : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được
?” 53 Đức Giê-su nói với họ : “Thật, tôi bảo
thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không
có sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu
tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là
của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở
lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai
tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được
sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời
xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh
này, sẽ được sống muôn đời.”
Chúng
ta hết sức lưu-ý đến câu : “ 57 ….
tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được
sống như vậy.
“Tôi sống
nhờ Chúa Cha thế nào” Chúa Giê-su cũng cần phải có một
thứ lương thực và cách nhận lương thực ? Và
thực sự : “34Lương
thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công
trình của Người.” (Gioan 4:34)
(Xin xem kỹ lại lời Chúa trong toàn bộ chương 4 và 6 của tin mừng Gioan). Như
vậy “lương thực” của Chúa Giê-su : Thánh
chỉ Thiên-Chúa và “ăn uống lương thực” đó là Ngài “thi hành mọi thánh chỉ” của Thiên-Chúa Cha.
Cách
Chúa Giê-su nhận lương thực và dùng lương thực để rồi Ngài tuyên bố : “Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào” thì
cũng là cách thiên-Chúa chỉ định cho tín hữu hôm nay phải thực hiện : “… kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như
vậy…”
Lương
thực của Chúa Giê-su như thế nào thì lương thực dành cho con người hôm nay cũng
vậy. Ăn thịt và uống máu Chúa Giê-su chính là : “Ai
tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở
lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại
trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta (I
Gioan 3:24 . Gioan 14:23).
- Ý nghĩa và đích điểm của hình thức ăn uống
Chắc
rằng đọc đến đây : mọi người sẽ phải tổng hợp nhiều hình bóng mà hình thức ăn uống
từ trong sách Sáng thế đã chỉ ra (St
1:29,30. 9:3. Danien 4:25-29. Le 11. Đệ nhị, Phục 14:21. Cv 15:29-29. Mac
7:1-19. Lu 22:14-19 …. ) Tất cả các hình thức đó được trình bày và buộc phải
thi hành trong hầu hết cả lịch sử của dân được Chúa dùng làm biểu tượng hoặc cụ
thể nơi những người được Thiên-Chúa kêu gọi. Hình ảnh đích thực cho sự kiện ăn
uống được công bố sau cùng khi Chúa Giê-su dạy trong Lu 22:14-19 và tinh giản
trong Cv 15:28-29 chính là nội dung và được làm sáng tỏ trong hai trích đoạn :
Một trích đoạn nói về cách nhận thực phẩm và thực phẩm dành cho Chúa Giê-su : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn
của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” và trích đoạn thứ hai là thực phẩm
dành cho loài người; thực phẩm cho loài người và cách dùng cũng tượng tự như thực
phẩm và cách dùng thực phẩm của Chúa Giê-su : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời
Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại
với người ấy”.
Qua
hình thức lương thực, cách nhận và dùng của Chúa Giê-su cũng như lương thực,
cách nhận và dùng của người tin Chúa, chúng ta nhận ra một điều hệ trọng hình
bóng và là ý nghĩa đích điểm của việc ăn uống như sau : Người không tin Chúa sẽ không nhận được giáo huấn là lương thực thánh sạch
đem lại sự sống đời đời và họ sẽ phải dung nạp nhiều giáo huấn chỉ bởi loài người
vốn đã ô-uế do sự liên đới với Adam. Nhưng ngược lại người tin Chúa sẽ nhận được
sự sống đời đời bởi chính giáo huấn thánh khiết là lương thực thường tồn trong
hành trình về đất hứa là “trời mới đất mới” sẽ được thiết lập trong tương lai
khi Chúa Giê-su trở lại.
- Vấn đề quan trọng khác nữa
Chưa hết, nếu
không trình bày đủ mọi lẽ thì e rằng bạn đọc cho rằng bài viết không đề cập đầy
đủ vì trong trích đoạn I Corinto 11:23-27 nêu ở phần B, riêng nội dung trong
câu 27 sau đây phải hiểu thế nào cho đúng, xin được trích lại sau : “26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến,
mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. 27
Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng
phạm đến Mình và Máu Chúa”.
“Vì
thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến
Mình và Máu Chúa”
như
chúng ta vừa phân tách sau khi Chúa Giê-su hoàn thành việc cứu chuộc qua việc
Ngài dâng chính mạng sống của mình để làm hy lễ, thì hiệu quả các tác vụ mà
Ngài thực hiện bao gồm : Thứ nhất, Ngài
nắm giữ chức vụ thượng tế trở lại, và là chức vụ đời đời mà không nhường cho bất
kỳ ai khác (Dt, He 7:21, 24). Vì sao ? Vì thời kỳ làm hình bóng (cựu ước)
đã chấm dứt để bắt đầu cho sự cứu chuộc trọn vẹn khi tin mừng được loan báo khắp
đất. Thứ hai, thánh lễ mà Ngài dâng khi
xưa có giá trị cứu-độ đời đời và chỉ cần một lần dâng (Dt, He 9:12,26,28.
10:10). Chỉ hai điều nêu trên thôi, chắc rằng không ai lại dám tự nhận cho mình
chức vụ thượng tế với phẩm hàm Men-ki-xê-đê theo nghĩa đen để dâng lễ và nhất
là lại ở trong cương vị Chúa Giê-su ?
Trở
lại nội dung câu : “Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì
cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” . Thật vô cùng nan giải nếu như không
có các vị với cương vị Chúa Giê-su để đọc kinh nguyện thánh thể và tín hữu sẽ
lãnh nhận được mình và máu Chúa Giê-su từ tay các vị ấy !!!
Nhưng
thưa không phải như vậy ! Khi người hữu trách trong hội thánh thực hiện lại mệnh
lệnh Chúa Truyền : hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy, thì bánh vẫn là bánh
và rượu vẫn là rượu mà nó không hề thay đổi bản thể chi cả, vì rất là đơn giản
như đã trình bày ở trên, Chúa Gie-su không nhường chức vụ thượng tế cho riêng
ai và cũng chẳng có ai đủ tư cách để đảm nhận cùng với ý nghĩa hình bóng của việc
ăn uống đã chỉ ra thứ “lương thực” thật sự cho người tin là thực thi các chính
các giáo huấn bởi Chúa, mà không thể là các hình thức nào khác và nhất là lại vật
chất hóa các hình thức ấy một giáo lý đi quá xa lời Chúa dạy ! Như vậy, việc thực
hiện lại nghi thức ăn bánh uống chén chỉ để tưởng nhớ và đồng thời với tấm bánh
đó, một biểu tượng chỉ về thân thể Chúa Giê-su, – mà thân thể Chúa Giê-su lại chính là các
thành viên trong hội thánh, – ai đó vẫn còn trong tội; nhất là tội phạm với các
thành viên trong hội thánh mà không ăn năn, khi ăn và uống chén đó, người ấy
xem như vi phạm đến chính thân Chúa, vì thân Chúa chính là các thành viên hiệp
hội lại theo tinh thần Chúa để là hội thánh Chúa. Xin đọc tiếp các dòng sau
trong I Corinto 11:28-31 : “28 Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và
uống Chén này. 29 Thật vậy, ai ăn và uống mà
không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. 30 Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm
đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết. 31 Giả
như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử” .
“Ốm đau suy nhược và có lắm người
đã chết” là các tình trạng của tín hữu đang trong tội mà
không xét mình ăn năn khi uống chén và ăn bánh một hình thức tưởng nhớ Chúa
Giê-su Con một Thiên-Chúa.
Tóm
tắt và kết thúc
Tóm tắt về hai
cách ban “thịt và huyết” Chúa Giê-su theo Kinh thánh và theo giáo lý của Giáo hội
công giáo :
- a Ban “thịt và huyết” Chúa Giê-su theo Giáo lý Giáo hội Công giáo :
·
Thừa
tác viên :
Linh mục và Giám mục được truyền chức thành sự và ở
trong cương vị Chúa Giê-su khi họ dâng lễ, giảng luận, và giải tội. Với cương vị
đó mặc nhiên phẩm hàm Men-ki-xê-đê là thuộc tánh của Chức vụ thừa tác viên.
·
Thánh
lễ :
Phải có thừa tác viên là người được giáo hội truyền
chức thành sự. Các vị này là linh mục hoặc giám mục và khi dâng lễ họ ở trong cương vị Chúa Giê-su. Khi không có họ thì
không có “thánh lễ”, đồng thời cũng không thể có “thịt và máu Chúa Gie-su” được
ban phát cho tín hữu (thánh lễ được dâng bởi các Linh mục, Giám mục theo giáo
lý của giáo hội Công giáo, đó là : thánh lễ nối dài Hy-lễ thánh xưa bởi chính
Chúa Giê-su đã dâng chính mạng sống Ngài làm của lễ, tức là : làm cho hiện
diện và hiện tại hoá hy tế). (Xem lại
số 280).
- b. Ban “thịt và huyết” Chúa Giê-su theo Lời Chúa dạy trong kinh thánh :
Chúa
Giê-su sau khi dâng mình làm lễ hy sinh chuộc tội, với hiệu quả tác vụ đó Ngài
đã phục hồi tình trạng cho người tin về chức vụ tư tế (I Phê-rô, Phi-e-rơ
2:5,9) là thuộc tính đời đời của họ, in như các thầy tế lễ thời cựu ước xưa làm
hình bóng tượng trưng. Riêng về Chúa
Giê-su sau khi dâng chính mạng sống
làm hy tế mà không phải các con sinh tế xưa chỉ dùng với ý nghĩa tượng
trưng; khi sống lại, Ngài lãnh nhận ngay chức vụ thượng tế đời đời một chức vụ mà thầy thượng phẩm thời cựu ước đã
tượng trưng về Ngài. Chúa Giê-su lãnh nhận chức vụ thượng tế theo phẩm hàm Men-ki-xê-đe bởi Thiên-Chúa Cha hứa ban có
lời thề chỉ dành riêng cho Ngài, mà không nhường cho ai một khi Ngài đảm nhận
trở lại vì Ngài không hề chết và cũng
chẳng có ai mọi thời đại đủ thánh khiết để nắm giữ chức thượng tế cả !
“Bí
tích thánh thể” được Chúa Giê-su thiết lập. Nhưng hình bóng tượng trưng xa gần
cho “bí tích thánh thể” thì đã được Thiên-Chúa bày tỏ từ trong sách Sáng thế ký
và được cụ thể hóa trong khía cạnh “ẩm thực”. Đã là dân thánh, dân của Chúa thì
được hướng dẫn để ăn uống theo cách của Chúa – thời kỳ kiện toàn lề luật (Mt
5:17-19) vấn đề ăn uống là hình bóng tượng trưng vì nó không đem lại sự sống đời
đời; hình thức đó, nay được phục hồi về nguyên ủy tức là ăn và uống chính thân và huyết Chúa; một thực
phẩm có giá trị đời đời nhưng không ở hình thức được cụ thể hóa bằng vật chất nữa
mà lại bằng chính việc tuân giữ các giáo
huấn và mệnh lệnh Chúa truyền dạy (Gioan 14:21,23. I Gioan 3:24), giống như
cách Adam xưa đã từng ăn và uống thịt và huyết Chúa; một hình thức mà các nhà
thần học gọi là giao ước hành vi. Hôm nay : Việc tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh Chúa dạy chính là đang ăn và uống
: Thịt và huyết Chúa Giê-su. Một hình thức về Bí tích thánh thể bởi
Thiên-Chúa chỉ định từ đời đời. A-men !
Kết
thúc
:
Chúng ta tự vấn
lương tâm xem : chúng ta đang dùng loại thực phẩm nào, và bằng cách nào ? Hoặc
theo cách của Thiên-Chúa dạy (ăn trái của cây trường sinh) : nghĩa là thực thi
mọi giáo huấn, mệnh lệnh Chúa truyền dạy để nhận được sự sống đời đời nghĩa là
có Thiên-Chúa ngự trị trong lòng chúng ta; hoặc theo cách của loài người (ăn
trái của cây cho biết điều thiện ác) xem giáo lý của loài người ngang bằng hoặc
hơn cả giáo huấn, mệnh lệnh Thiên-Chúa !
Tất cả chúng ta
đều phải ứng hầu trước tòa Thiên-Chúa ở một trong hai tình trạng : ngẩng cao đầu
hay cúi đầu (Mt 7:21. Luca 21:28. St 3:14).
Trọng kính trong danh Chúa Giê-su Ki-tô
Lê Văn
(Đ/t
08 391-657-51)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét